VINHTHIENTUONG.BLOGSPOT.COM HÂN HẠNH CHÀO ĐÓN CÁC BẠN !

Thứ Hai, 15 tháng 12, 2025

TRẦN GIAN NGÀY TRỞ LẠI

TRẦN GIAN NGÀY TRỞ LẠI (mạ đề)


Giữa buổi đông mờ cuộc tái sinh
Càn khôn hỷ nộ báo tin mình
Danh hèn trở lại bao mùa vắng
Tuổi mọn quay về bấy nỗi vinh
Mộng vẫn bình yên tìm lý tưởng
Đời luôn giản dị sống chân tình
Ơn trời kiếm đủ ngày ba bữa
Thiết nghĩ không cần việc sử kinh ./.

LCT 16/12/2O25

BÀI HOẠ :

*****
Hoành Trần

TẠI TA
Mịt mờ nẻo thế kiếp nhân sinh
Được mất hơn thua chỉ tại mình
Hám lợi bao lần vương nỗi nhục
Ham danh ít bận nhận niềm vinh 
Cũng vì lòng hẹp luôn si hận
Hay tại tâm hèn khiến cạn tình
Tóm lại do thân nên lắm chuyện
Đôi khi nghiền ngẫm thấy mà kinh
HT
16/12/25
*****
Đăng Khoa Lê
. CHUYỆN CŨ QUA RỒI                      

Duyên trời cởi trói mộng hồi sinh
Trở lại ngày xưa vẫn chính mình
Phận mỏng bao mùa trông đã khó
Thân hèn mỗi sự thấy nào vinh
Còn mong sống cảnh giàu ân nghĩa
Những muốn về quê nặng mảnh tình
Tính bữa no nghèo rau gạo đủ
Đâu màng gọt sử lẫn mài kinh

                   L Đ K 16/12/25
*****
Sầu Đông
MÃI ĐẸP VẦN THƠ

Vui cùng nét chữ tặng ngày sinh
Đẹp mãi vần thơ viết gởi mình
Sáng thả đôi điều mong nghĩa đọng
Trưa bàn mấy chuyện để lòng vinh
Buồn đêm ngọn gió treo rìa bãi
Lạnh buổi vầng trăng rụng mé kinh
Xóm nhỏ đêm trầm chuông đổ nhịp
Vui cùng nét chữ tặng ngày sinh
SD
Sầu Đông  
*****
Nguyễn Thúc Uẩn
TỰ LUẬN
Quay vòng lại đến cửa hồi sinh
Tạo hóa nhào đan vẽ bản mình
Trí lự vươn mình qua bão hiểm
Khuôn hình giữ vết lại trầm vinh
Cho thành hạt cát xây ngời nghĩa
Để đạt lòng trong dãn thắm tình
Giữ ổn bình an nhà thoáng tọa
Thơ đàn thế phiệt vững thần kinh
*****
Tòng Trần
CHẲNG HỀ KINH

Dương trần lắm Bụi vẫn hồi sinh...
Thất thập vừa len cửa ngõ mình
Bởi cõi ta bà thân chịu đắng
Do miền cảnh thế phận hờn vinh
Ngày qua tháng lại thôi chờ nghĩa
Bữa đến giờ trôi khỏi đợi tình
Đủ sức yên bề lo rẫy ruộng
Nên rằng cuộc sống chẳng hề kinh.

16/12/2025.
*****
Vũ Như Cẩn
KHỞI KIẾP NHÂN SINH 
   ********..♡..********
Đông Càn sự sống lại hồi sinh
Tiết chế Xuân Khôn tự có mình
Kết hợp màn trời vào đất lạnh 
Ân tình khởi cuộc mở đời vinh
Lý vẫn bình yên tìm tâm tưởng
Giản dị tao nhân nghĩa cả tinh 
Chủ yếu thời thân ngày đủ bữa
Chuyên cần sử nấu để sôi kinh ./.

***
16/12/2O25 Vũ Như Cẩn 
*****
Dinh Tuan Minh
TRONG NĂNG HOÀNG HÔN
Đâu màng bổng lộc giữa ngày sinh
Chỉ mộng gần xa vẫn nhớ mình
Dẫu cảnh mơ hoài chưa phú thịnh
Hay đời ước mãi chẳng phồn vinh
Mừng vui gặp chỗ giàu tâm huyết
Phấn khởi về nơi nặng nghĩa tình
Lặng lẽ gom từ trao khắp nẻo
Như làn sóng nhỏ vỗ bờ kinh
Đinh Tuấn Minh.
*****

☕Lời bình của AI☕


🌹 Tuyệt Phẩm Chiêm Nghiệm: TRẦN GIAN NGÀY TRỞ LẠI
Thơ mừng thọ, mừng sinh nhật, vốn là thể loại ca ngợi sự đản sinh và những tháng năm hữu hạn của đời người. Nhưng với áng thơ "TRẦN GIAN NGÀY TRỞ LẠI" này, người làm thơ đã nâng tầm niềm hân hoan cá nhân lên thành một tuyên ngôn triết lý về sự tri túc và hạnh phúc giản dị trên cõi nhân gian.
Mở đầu thi phẩm, thi nhân đã đặt sự kiện sinh nhật vào bối cảnh vũ trụ huyền bí, khoáng đạt: "Giữa buổi đông mờ cuộc tái sinh / Càn khôn hỷ nộ báo tin mình." Ngày trở lại trần gian không còn là dấu mốc bình thường, mà là một "cuộc tái sinh" thiêng liêng. Dường như cả trời đất (Càn khôn) cũng phải rung chuyển, hòa mình vào dòng cảm xúc "hỷ nộ" để chứng giám cho sự hiện diện của một linh hồn. Ngôn từ ấy đã phủ lên ngày sinh một hào quang lớn lao, khẳng định vị thế của bản thể trong sự vận hành của tạo hóa.
Tiếp nối sự chiêm nghiệm, hai câu thực là lời tự bạch đầy khiêm cung nhưng không kém phần tự hào: "Danh hèn trở lại bao mùa vắng / Tuổi mọn quay về bấy nỗi vinh." Tuy tự nhận mình "danh hèn", song sự trở lại sau "bao mùa vắng" này lại mang theo "bấy nỗi vinh". Cái "vinh" này không phải là vinh quang thế tục, mà là vinh dự được sống trọn vẹn, được bảo toàn bản ngã qua bao thăng trầm năm tháng. Đây là sự tự hào của một người đã vượt qua vòng quay thời gian, trở về với chính mình trong sự tĩnh tại.
Đến cặp câu luận, ta thấy rõ con đường và phương châm sống mà thi nhân đã chọn lựa: "Mộng vẫn bình yên tìm lý tưởng / Đời luôn giản dị sống chân tình." Giữa dòng đời cuồn cuộn, hoài bão (Mộng) vẫn được giữ trong trạng thái "bình yên", kiên trì theo đuổi những giá trị chân chính (lý tưởng). Đó là một sự lựa chọn chủ động, từ bỏ bon chen để tìm về sự "giản dị" và đối đãi với nhân loại bằng tấm lòng "chân tình" thuần khiết. Đây chính là cốt lõi của đạo sống an lạc mà người đời thường hướng tới.
Và rồi, sự đúc kết đã được cô đọng một cách kinh điển trong hai câu kết: "Ơn trời kiếm đủ ngày ba bữa / Thiết nghĩ không cần việc sử kinh." Thi nhân đã đạt đến đỉnh cao của triết lý Tri túc. Chỉ cần cuộc sống được bảo đảm những điều cơ bản nhất, sự đủ đầy về vật chất thiết yếu ("kiếm đủ ngày ba bữa") đã là một "Ơn trời" vĩ đại. Từ sự đủ đầy ấy, người thơ đã dứt khoát buông bỏ những đeo đuổi phù phiếm. "Sử kinh" (biểu tượng cho học vấn cao siêu, danh vọng lớn) bị gạt sang một bên. Đây không phải là sự chối bỏ kiến thức, mà là tuyên ngôn của một tâm hồn đã tìm thấy tâm an trong lẽ giản đơn, thấy rằng hạnh phúc thật sự không cần phải tìm kiếm trong những giá trị xa vời, mà nằm ngay trong hơi thở và bữa cơm thường nhật.
Khép lại bài thơ, người thơ đã tặng cho mình và cho đời một triết lý sống cao đẹp: Sự đủ đầy vật chất kết hợp với sự bình yên nội tại chính là chân phúc, là mục tiêu cuối cùng của một kiếp người trở lại trần gian.



Thứ Bảy, 13 tháng 12, 2025

NHỊP ĐIỆU TRẦN GIAN

NHỊP ĐIỆU TRẦN GIAN


Khoảng lặng chiều rơi ngõ gió lùa
Men đời đã ngấm thủm mùi chua
Nhìn quanh lũ ngựa còn non vó
Đảo dọc bầy trâu cũng quá mùa
Giữa ruộng côn trùng ngao ngán thở
Trong vườn quỷ sứ miệt mài đua
Đường quê đám cẳng dài đang chạy
Kiếm khoản tiền đem tạ lễ chùa ./.

LCT 14/12/2O25
BÀI HOẠ :
*****
Tòng Trần
CHÁT CHUA

Trời đông lạnh lẽo áng mây lùa
Ngẫm thuở xuân thời có vị chua
Bởi tại ngày kia còn nõn vó
Vì do buổi đó vẫn non mùa
Đêm thì gió gọi chừng ngưng thở
Sáng lại mưa gào đã phải đua
Sợ cảnh chiều hoang sầu bóng ngã
Hồn ngơ ngẩn vọng ngõ sân chùa.

14/12/2025.
*****
Hoành Trần

HÍ TRƯỜNG
Chỉ cần nhẹ quét cũng vừa lùa
Tất thảy đắng cay với chát chua
Của lũ tham quyền khi chính vụ
Cùng bầy nịnh hót lúc đang mùa
Mưu sâu gặp dịp nên bừng nở
Kế hiểm đúng thời mặc sức đua
Kẻ khóc người cười thêm nhí nhố
Thành tâm quan lớn tạ ơn chùa
HT
14/12/25
*****
Đăng Khoa Lê
. NỢ ĐỜI
            
Đìu hiu cõi tạm gió đông lùa
Quảng ngắn xuân thì đẫm mặn chua
Tại thuở làm trai ngày lỗi vía
Còn khi khởi nghiệp bãi non mùa
Xong thời sóng quẩn nên ngừng chạy
Mãn cuộc thân tàn chẳng thiết đua
Thấy những đời hoang vì nợ đuổi
Đành buông bỏ hết lão vô chùa

               L Đ K 14/12/25
*****
Nguyễn Thúc Uẩn
Một thoáng quê
Dòng sông bẩn đục rác trôi lùa
Những mảng thâm bèo nặng khí chua
Lưới rải ngư thuyền mong được bữa
Đồng ngơi vụ lúa rã thôi mùa
Trên đường khói vẩn xe gầm vượt
Cạnh máng sương vờn chão nhảy đua
Dẻo nhẹ chân dài thân chẽn áo
Nhiều cô bóng bẩy lội lên chùa
*****
🧐 Phân tích Bài thơ "NHỊP ĐIỆU TRẦN GIAN" của AI
*****
Bài thơ "Nhịp Điệu Trần Gian" là một tác phẩm mang màu sắc triết lý, có phần châm biếm nhẹ nhàng, sâu cay về sự hối hả, lo toan và đôi khi là sự lạc lối, vội vã của con người trong cuộc sống mưu sinh.
1. Phân tích Nội dung và Cấu trúc
Hai câu đề (Khởi ý):
Khoảng lặng chiều rơi ngõ gió lùa
Men đời đã ngấm thủm mùi chua
Hai câu mở đầu tạo ra một không gian và tâm trạng. "Khoảng lặng chiều rơi" gợi cảm giác cô độc, suy tư, là khoảnh khắc tạm dừng của thời gian. Tuy nhiên, sự tĩnh lặng này lại không mang lại sự an yên, mà ngược lại, nó là thời điểm để người thơ nhận ra "Men đời đã ngấm thủm mùi chua". "Men đời" là ẩn dụ cho những trải nghiệm, cay đắng, thăng trầm của cuộc sống. "Thủm mùi chua" là cách nói dân dã, mạnh mẽ, thể hiện sự thất vọng, chán chường về bản chất không hoàn hảo, thậm chí là tiêu cực của đời sống trần thế.
Bốn câu thực và luận (Phát triển ý):
Nhìn quanh lũ ngựa còn non vó
Đảo dọc bầy trâu cũng quá mùa
Giữa ruộng côn trùng ngao ngán thở
Trong vườn quỷ sứ miệt mài đua
Đây là phần tinh túy nhất, nơi tác giả sử dụng các hình ảnh ẩn dụ đối lập và gây sốc để phê phán.
Ngựa non vó / Trâu quá mùa: Đây là hình ảnh ẩn dụ cho con người trong guồng quay công việc. "Ngựa non vó" chỉ những người trẻ, thiếu kinh nghiệm nhưng đã phải lao vào cuộc đua; "Trâu quá mùa" chỉ những người đã lớn tuổi, sức lực đã hao mòn nhưng vẫn phải gồng mình mưu sinh, không còn đúng "mùa" làm việc nữa. Cả hai đều mang ý nghĩa là lực bất tòng tâm hoặc lao động không hiệu quả, không đúng lúc.
Côn trùng ngao ngán thở / Quỷ sứ miệt mài đua: Sự đối lập này cực kỳ sắc sảo. "Côn trùng" (những sinh vật nhỏ bé, thấp kém) mà còn "ngao ngán thở" vì cái nhịp điệu trần gian này, cho thấy sự mệt mỏi, chán chường đã lan tỏa đến tận những cá thể bé nhất. Ngược lại, "quỷ sứ" (ám chỉ những kẻ xấu, tham vọng, hoặc bị dục vọng làm cho biến chất) lại "miệt mài đua" – thể hiện sự ganh đua, đấu đá không ngừng nghỉ và đầy tiêu cực trong xã hội.
Hai câu kết (Tổng kết):
Đường quê đám cẳng dài đang chạy
Kiếm khoản tiền mong tạ lễ chùa
Hai câu kết thâu tóm tất cả sự phê phán một cách trần trụi. Hình ảnh "đám cẳng dài đang chạy" là hình ảnh nhân hóa đầy tính châm biếm, diễn tả sự vội vã, gấp gáp, mải miết của con người trong cuộc mưu sinh (chạy cật lực để kiếm tiền). Đỉnh điểm của sự châm biếm là động cơ: "Kiếm khoản tiền mong tạ lễ chùa". Điều này nhấn mạnh nghịch lý: con người tranh đoạt, đấu đá, chạy đua một cách vô nhân tính (như quỷ sứ) để kiếm tiền, nhưng cuối cùng lại dùng số tiền đó để "tạ lễ chùa" – một hành động mang tính chất tôn giáo, tìm kiếm sự thanh thản và chuộc lỗi. Đây là một vòng luẩn quẩn đầy mâu thuẫn giữa mưu sinh trần tục và khát vọng tâm linh, thể hiện sự giả tạo hoặc sự bất lực của con người trước gánh nặng vật chất.
🖼️ Hình ảnh Diễn tả trong Bài thơ
Bài thơ đã sử dụng một loạt hình ảnh phản ánh hiện thực một cách châm biếm và đầy tính biểu tượng để diễn tả cái gọi là "Nhịp Điệu Trần Gian":
Hình ảnh không gian/thời gian tĩnh lặng nhưng chất chứa:
"Khoảng lặng chiều rơi": Gợi mở về sự nghỉ ngơi, nhưng lại là thời điểm để tâm hồn nhận ra nỗi buồn, sự ê chề của cuộc sống.
"Ngõ gió lùa": Không gian hẹp, lạnh lẽo, cô độc, tăng thêm sự suy tư.
Hình ảnh ẩn dụ về trạng thái tinh thần:
"Men đời đã ngấm thủm mùi chua": Hình ảnh vị giác mạnh mẽ, trực tiếp truyền tải sự cay đắng, chua chát, thậm chí là sự thối rữa của những giá trị, quy luật cuộc đời.
Hình ảnh ẩn dụ về con người trong cuộc đua mưu sinh:
"Lũ ngựa còn non vó" và "Bầy trâu cũng quá mùa": Biểu tượng cho sự thiếu chuẩn bị, sự hao mòn sức lực và sự không phù hợp của con người trong guồng máy lao động, nhưng vẫn phải cố gắng.
"Côn trùng ngao ngán thở": Hình ảnh đại diện cho những người thấp cổ bé họng, yếu thế, đã quá mệt mỏi với cuộc sống.
"Quỷ sứ miệt mài đua": Hình ảnh mạnh mẽ, cực đoan, chỉ những kẻ bị vật chất, dục vọng cuốn hút, bất chấp mọi thủ đoạn để đạt mục đích.
Hình ảnh hành động tổng kết sự vội vã và mâu thuẫn:
"Đám cẳng dài đang chạy": Chuyển động nhanh, không có nhân diện, chỉ còn là những cái chân đang chạy, nhấn mạnh sự mất đi nhân tính, chỉ còn lại hành động mưu sinh vô hồn.
"Kiếm khoản tiền mong tạ lễ chùa": Hình ảnh tổng kết nghịch lý: chạy đua vật chất bằng mọi giá để rồi dùng nó cho mục đích tinh thần.
Tóm lại, bài thơ "Nhịp Điệu Trần Gian" đã thành công trong việc tạo dựng một bức tranh về cuộc sống hiện đại: hỗn loạn, vội vã, đầy mâu thuẫn giữa bản năng vật chất và khát vọng tâm linh, được truyền tải qua những hình ảnh ẩn dụ sắc sảo và ngôn ngữ có phần trần trụi, dân dã nhưng đầy sức nặng

Thứ Năm, 11 tháng 12, 2025

CÙNG SAY

CÙNG SAY


Rượu rủ đời say mỗi cuối chiều
Khi tình lãng tử muốn quàng xiêu
Đầu sông lão ngắm màu trăng bạc
Giữa phố người neo mảnh lụa điều
Bởi họ sang giàu quen phóng đãng
Nên mình túng quẫn chọn bồng phiêu 
Sầu nhân thế mượn hồn men để
Giết nỗi buồn hôm biển dậy triều ./.

LCT 12/12/2O25
BÀI HOẠ :
*****
Hoành Trần

CHIỀU NGHIÊNG BÓNG ĐỔ
Buông tình tủi phận bóng qua chiều
Mệt rả rời thân mỏi bước xiêu
Vẫn biết thị phi đơm lắm chuyện
Đâu hay thực tế giấu bao điều
Bịt tai nhắm mắt mà vui sống
Ngắm biển trông trời để lãng phiêu
Giấc mộng cuộc đời như bọt nước
Hoà tan vào sóng lúc dâng triều
HT
12/12/25
****
Tòng Trần
MEN NỒNG

Mời chung rượu quý buổi tan chiều
Thưởng thức men nồng đã lại xiêu
Lãng tử hồn gieo bằng nén bạc
Hồng nhan nghĩa đắm tựa khăn điều
Do hồi gặp gỡ tình nghiêng đổ
Tại thuở giao hòa ái ngã phiêu
Giấc mộng nhiều đêm dường thỏa mãn
Tàn canh chợt tỉnh sóng lan triều.

12/12/2025.
****
Nguyễn Thúc Uẩn
AN NHÀN
Giờ đây mỗi dịp buổi sang chiều
Bạn hữu tương phùng đảo phiếm xiêu
Khẩu khoái ôn về bao nẫu chuyện
Trò xôm nhớ lại những vui điều
Qua rồi quãng khổ thời khăn khó
Hết sạch điêu tàn tuổi phẫn phiêu
Nghĩa đặm mơ về năm tháng trẻ
Tình ve giục mãi chẳng dâng triều
*****
Sầu Đông
HỒI TƯỞNG

Em hồi tưởng lại khúc đời phiêu
Chỉ mấy vần thơ mộng sớm chiều
Lối hạ mơ màng phiên lá đổ
Đêm hồng thổn thức lệ tình xiêu
Nhìn qua biển lạnh màu loang khói
Nghĩ đến dòng sâu nước cuộn triều
Bỗng thấy khoang lòng sao trống trải
Nên còn mãi đợi một lần yêu/
****
Dinh Tuan Minh
SAY
Giờ đây mọi thứ bỗng xoay chiều
Rượu cũng như tình chuốc phải xiêu
Đã hiểu chàng si vì yếm lụa
Từng thương lão ngẩn tại khăn điều
Thân còn túng quẫn luôn chờ đảo
Số chẳng sang giàu vẫn hẹn phiêu
Để giấc mơ hồng trôi lạc ngõ 
Rồi bao mộng tưởng cuốn theo triều
Đinh Tuấn Minh.
****
Đăng Khoa Lê
. MƯỢN RƯỢU

Còn say ngất ngưỡng vọng sang chiều
Lão tự quăng mình bởi lý xiêu
Hỏi ngõ đời nay tình lắm bạc
Vào thôn thuở nọ lí sai điều
Do trời xẻ đám vào du đãng
Tại sóng tan bầy đuổi vãn phiêu
Xiết nỗi sầu cay hồn men để
Ngờ hôm dậu đổ lỗi do triều

                  L Đ K 12/12/25
*****

🍀 Lời bình của AI 🍀


Bài thơ "CÙNG SAY" là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa phong vị lãng tử cổ điển và nỗi niềm thế sự hiện đại, nơi chén rượu trở thành vũ khí tinh thần để đối kháng với sự phân hóa của đời sống.
I. Khai Mở Tâm Trạng và Bối Cảnh (Đề và Thực)
Hai câu đề xác lập ngay không khí và tâm thế nhập cuộc:
Rượu rủ đời say mỗi cuối chiều
Khi tình lãng tử muốn quàng xiêu
"Cuối chiều" là thời khắc chuyển giao, dễ khiến lòng người chùng xuống, mở ra cánh cửa cho sự cô độc. Rượu ở đây không còn là vật vô tri mà là một chủ thể biết "rủ", kéo cả "đời" vào một cuộc say chung. Cái say này là sự giải thoát được tìm kiếm một cách chủ động khi "tình lãng tử" (cái tôi phiêu bạt, tài hoa nhưng gặp cảnh trái ngang) cảm thấy "quàng xiêu" (chông chênh, muốn buông xuôi).
Hai câu thực đối lập, mở ra tầm nhìn của thi nhân về thế giới:
Đầu sông lão ngắm màu trăng bạc
Giữa phố người neo mảnh lụa điều
Sự đối lập hoàn hảo này định vị hai thái cực cuộc đời:
"Đầu sông" và "trăng bạc" gợi lên không gian thanh sạch, cao khiết, nơi "lão" (cái tôi tự xưng bằng thái độ chiêm nghiệm, đã trải sự đời) tìm thấy sự an ủi trong vẻ đẹp vĩnh cửu, thoát tục.
"Giữa phố" và "lụa điều" (màu đỏ thắm, rực rỡ) lại là hình ảnh của sự phồn hoa, huyên náo, nơi con người bị "neo" giữ, ràng buộc bởi vật chất xa hoa, phù phiếm.
Tác giả đã khéo léo đặt cái thanh cao (trăng bạc) bên cạnh cái trần tục (lụa điều) để chuẩn bị cho sự lựa chọn ở phần sau.
II. Triết Lý Sống và Lời Tuyên Ngôn (Luận và Kết)
Hai câu luận là lời tuyên bố về sự lựa chọn mang tính phản kháng:
Bởi họ sang giàu quen phóng đãng
Nên mình túng quẫn chọn bồng phiêu
Đây là trục đối trọng triết lý của bài thơ. Cái "sang giàu" đi kèm với thói "phóng đãng" (sống buông thả, tiêu xài lãng phí), bị đặt đối diện với cái "túng quẫn" (nghèo khó vật chất, nhưng giàu tâm hồn). Sự "bồng phiêu" (sống tự do, trôi nổi) trở thành lối thoát, là sự lựa chọn đầy tự tôn để giữ mình khỏi sự tha hóa của vật chất. Bồng phiêu không phải là đầu hàng, mà là một thái độ khinh bạc, quay lưng với giá trị phù phiếm của xã hội.
Hai câu kết đẩy nỗi sầu lên đến đỉnh điểm và chốt lại mục đích của cuộc say:
Sầu nhân thế mượn hồn men để
Giết nỗi buồn hôm biển dậy triều
Nỗi buồn cá nhân được nâng tầm thành "Sầu nhân thế" (nỗi buồn cho nhân tình thế thái, cho kiếp người).
"Hồn men" (linh hồn của rượu) được mượn không phải để ru ngủ, mà là để thực hiện hành động mạnh mẽ: "Giết".
Nỗi buồn được ví von bằng hình ảnh kỳ vĩ, dữ dội: "biển dậy triều". Hình ảnh này cho thấy nỗi sầu không hề nhỏ bé hay tĩnh lặng, mà nó cuộn trào, nhấn chìm tâm can.
Việc dùng rượu để "giết" nỗi buồn "dậy triều" thể hiện một tinh thần đối kháng quyết liệt, thà đối diện và tìm cách tiêu diệt nỗi đau trong men say, chứ không cam chịu khuất phục trước nó.
💡 Tổng Kết
"CÙNG SAY" là một khúc ca bi tráng và lãng mạn. Tác giả đã vẽ nên chân dung một lãng tử cô độc, dùng cái say để mưu cầu sự thanh thản tinh thần, đồng thời bày tỏ sự khinh miệt đối với lối sống vật chất, phù phiếm của xã hội đương thời.

Thứ Ba, 9 tháng 12, 2025

GIÓ ĐÊM

 GIÓ ĐÊM

Mơ màng ngọn gió đảo ngoài hiên
Đúng nghĩa là trăng quả dịu hiền
Biển cõi muôn trùng mong sóng lặng
Em đời nghịch cảnh muốn lòng yên
Nhìn qua dãy trúc hồn Thu ảo
Lại giữa rừng hoa mắt Thủy phiền
Ngõ mộng bao lần mong đổi áo
Nhưng nào chẳng dễ nói rời phiên ./.

LCT 1O/12/2O25

BÀI HOẠ :

*****
Hoành Trần
XÓT XA TÌNH
Nhìn giọt sương đêm đọng mái hiên
Mơ về dáng cũ mắt nai hiền
Đón đưa một thuở lòng lo lắng
Hò hẹn tứ thời dạ chẳng yên
Cách biệt giàu nghèo nên tủi phận
Chao chênh trình độ khiến ưu phiền
Môn đăng hộ đối ông bà trọng
Rẻ lối duyên tình cũng đến phiên
HT
9/12/24
*****
Đăng Khoa Lê

. LẶN LỘI THÂN CÒ
             
Nguyệt ngẩn ngơ chờ mãi trước hiên
Đồng quê rượt đuổi bước chân hiền
Bao ngày bấc lạnh luôn kìm vững
Những tối mưa dày chẳng chịu yên
Nắng vội lo cày vai thấm mỏi
Đường xa gánh chợ cảnh gây phiền
Nhưng trời hiểu thấu tâm lòng mẹ
Đề dễ bây giờ tính nợ phiên. 

                 L Đ K 10/12/25
*****
Nguyễn Thúc Uẩn
Xuyên đêm
Dõi cảnh đêm về lạnh mái hiên
Nhìn trăng sóng soãi tỏa mơ hiền
Như là trước bão trời xanh dịu
Tưởng vẫn trên nguồn nước bạc yên
Lắm bận vườn xanh tràn thảo dã
Nhiều khi lũ ngập hóa ưu phiền
Sương mù giọt mãi sầu vương nẻo
Cạn bước canh trường đã đổi phiên
*****
Sầu Đông
NẮNG ĐÃ PHAI MÀU

Lối cũ trưa buồn nắng ngủ yên
Trời quê gió nhạt khói mây phiền
Con đò ngược sóng chèo lơi lả
Cánh nhạn chao trời mộng đảo điên
Vẫn tiếng hò khoan dòng nước bạc
Cùng câu ví dặm giữa sông Tiền
Muôn đời mãi đẹp mùa cây trái
Chẳng thiết tha gì chuyện giữa phiên/
*****
Tòng Trần
NGUYỆT MỀM

Lạnh lẽo sao nàng ngủ dưới hiên
Vầng trăng rọi thẳng chỗ em hiền
Êm đềm giữa ánh vàng im lặng
Khắc khoải trong màu nhạt tĩnh yên
Dõi phía tường loang chìm mộng ảo
Nhìn bên ngõ khép trải mơ phiền
Khuya tàn rệu rã nào thay áo
Để dạ âm thầm ngẫm tới phiên...

10/12/2025.
*****
Vũ Như Cẩn
... GIÓ ĐÊM ...
  ****..♡..****
Gió thổi ngoài trời vọng mái hiên
Trăng non đẹp quá lại thêm hiền
Muôn trùng ánh tỏa bên bờ lặng
Nghịch cảnh lu mờ muốn ổn yên
Khóm trúc thưa dày đêm ảo não 
Rừng hoa dạ nguyệt tỏ ưu phiền
Bao lần khát vọng thay xiêm áo 
Chẳng hề tơ hồng mát mẻ phiên ./.

1O/12/2O25 Vũ Như Cẩn
*****
Hương Lan
AI CHỜ
Tung hoành ngũ độ, Thủ nhất tự 

Cũng bởi Đông lùa dột mái hiên
Cành hoa gãy vội níu trăng hiền
Con đò trước biển mơ nào lặng
Cánh nhạn bên trời giữ chả yên
Cạn hết dòng sâu mà cũng cản
Còn chi vực đẫm chỉ luôn phiền
Canh dài hỏi nhé anh từng ngỡ
Cảnh cũ ai chờ đắng một phiên

10.12.2025
Hương Lan
*****
Kỳ
BẠN MỚI
Thưa chàng bạn mới ở ngoài hiên
Thấy gã cùng em hỏi chuyện hiền
Hỏi lữ phương nào chung số phận
Thương người mộng ảo muốn bình yên
Nhìn sang ngõ trúc tìm hương rải
Ngại ngỡ vườn thơ trút mỏi phiền
Lãng mạn bao ngày trông rủ khách
Yêu rồi chả ngỡ dứt lìa phiên.
Bvk
**********
Lê Minh
MƠ HOANG 

Lặng lẽ trăng rằm đổ trước hiên 
Vườn lơ lửng nhạt áng mây hiền 
Trăm niềm cũ réo đang chờ lặng 
Vạn nỗi xưa vò chẳng muốn yên 
Cạn những ăn tình trong mắt ảo
Đầy bao ước vọng giữa tâm phiền  
Ta giờ một mối sầu chưa loãng
Chỉ nguyện bên nàng dẫu hết phiên 
LM
*****

🌻Lời bình của AI🌻


🌃 Bài thơ "Gió Đêm" là một bức tranh tâm trạng, sử dụng những hình ảnh quen thuộc của thiên nhiên (gió, trăng, biển, trúc, hoa) để diễn tả nỗi niềm sâu kín, sự khao khát bình yên, và nỗi trăn trở trước những nghịch cảnh của đời người.
Khổ 1: Cảm nhận ngoại cảnh và ước vọng tâm hồn
Mơ màng ngọn gió đảo ngoài hiên
Đúng nghĩa là trăng quả dịu hiền
Biển cõi muôn trùng mong sóng lặng
Em đời nghịch cảnh muốn lòng yên
Hai câu đề (1, 2): Khung cảnh đêm tối được mở ra bằng cảm giác "Mơ màng" của "ngọn gió đảo ngoài hiên". Cảnh vật không dữ dội mà mang vẻ êm đềm, thanh thoát. Sự xuất hiện của "trăng quả dịu hiền" nhấn mạnh không gian tĩnh lặng, huyền ảo, tạo một phông nền lý tưởng cho sự chiêm nghiệm nội tâm. Cụm từ "Đúng nghĩa là trăng" cho thấy sự thấu hiểu, đồng điệu giữa người thơ và vẻ đẹp thuần khiết của thiên nhiên.
Hai câu thực (3, 4): Từ ngoại cảnh, tâm tình chuyển vào nội tâm qua phép so sánh ẩn dụ sâu sắc.
"Biển cõi muôn trùng mong sóng lặng": "Biển cõi" là hình ảnh hoán dụ cho cõi đời rộng lớn, phức tạp, chứa đầy những biến động, sóng gió. Ước mong "sóng lặng" là khao khát về sự bình ổn, không còn những chấn động lớn.
"Em đời nghịch cảnh muốn lòng yên": Đây là câu thơ trực tiếp bộc lộ chủ đề chính. "Em" có thể là đại từ nhân xưng của chính tác giả hoặc một hình tượng người đang chịu đựng. "Đời nghịch cảnh" đối lập hoàn toàn với vẻ "dịu hiền" của trăng, cho thấy sự khác biệt giữa cảnh và tình. Ước muốn "lòng yên" (bình an nội tâm) là điều người thơ hướng tới, đối trọng với những xáo động bên ngoài.
Khổ 2: Sự giao thoa giữa ảo ảnh và thực tại trắc trở
Nhìn qua dãy trúc hồn Thu ảo
Lại giữa rừng hoa mắt Thủy phiền
Ngõ mộng bao lần mong đổi áo
Nhưng nào chẳng dễ nói rời phiên ./.
Hai câu luận (5, 6): Sự quan sát tiếp tục đào sâu vào những hình ảnh mang tính ước lệ trong thơ ca.
"Nhìn qua dãy trúc hồn Thu ảo": "Dãy trúc" gợi lên sự thanh cao, cô tịch. "Hồn Thu ảo" là một trạng thái lãng mạn, mơ hồ, khi tâm hồn được hòa mình vào không gian hư ảo của mùa thu. Đây là một khoảnh khắc thoát ly, tìm về vẻ đẹp thoát tục.
"Lại giữa rừng hoa mắt Thủy phiền": Sự chuyển đột ngột từ cái "ảo" sang cái "phiền". "Rừng hoa" thường đẹp, nhưng ở đây, nó lại khiến "mắt" (tầm nhìn, nhận thức) cảm thấy "Thủy phiền" (phiền muộn như nước chảy, liên tục không dứt). Có thể hiểu là, dù trong cảnh đẹp, nỗi buồn, sự trắc trở vẫn hiện hữu, không thể xua tan. Sự đối lập giữa "Thu ảo" (tâm hồn) và "Thủy phiền" (thực tại) tạo nên một sự day dứt.
Hai câu kết (7, 8): Những câu thơ chốt lại nỗi niềm cá nhân và sự bế tắc.
"Ngõ mộng bao lần mong đổi áo": "Đổi áo" là thay đổi cuộc đời, thay đổi số phận, thoát khỏi cảnh "nghịch cảnh" và sự "phiền muộn". "Ngõ mộng" cho thấy đây là một ước mơ, một con đường chưa thành hiện thực.
"Nhưng nào chẳng dễ nói rời phiên": Câu thơ mang tính triết lý, chua xót. "Rời phiên" có nghĩa là thoát khỏi phiên trực, khỏi vai trò, khỏi sự sắp đặt của số phận. Tác giả nhận ra rằng, dù ước muốn thay đổi lớn đến đâu, việc thực hiện nó lại vô cùng khó khăn, gần như là bất khả thi. Cuộc đời vẫn phải "trực phiên", vẫn phải chịu trách nhiệm, vẫn phải đối diện với số mệnh đã định.
Bài thơ "Gió Đêm" để lại một cảm xúc buồn man mác, đồng thời thấm đẫm sự chiêm nghiệm sâu sắc.
Sự đối lập giữa Tĩnh và Động: Bài thơ thành công trong việc tạo ra sự đối lập giữa vẻ tĩnh lặng, dịu hiền của thiên nhiên (trăng, gió hiên nhà, dãy trúc) và sự xáo động, nghịch cảnh của cõi người ("sóng lặng", "lòng yên", "Thủy phiền"). Sự tương phản này làm nổi bật nỗi cô đơn và khao khát bình an của thi nhân.
Chất trữ tình và triết lý: Bài thơ không chỉ là sự than vãn mà còn là sự chấp nhận có chút bất lực. Hình ảnh "rời phiên" là hình ảnh đắt giá nhất. Nó không chỉ nói về sự khó khăn trong việc thay đổi số phận mà còn hàm ý về gánh nặng trách nhiệm, về những ràng buộc vô hình mà con người phải gánh vác trong cuộc đời. Dù "Ngõ mộng" có rộng mở đến đâu, thì "phiên trực" của mình vẫn phải hoàn thành.
Tính lãng mạn và ước lệ: Sử dụng hình ảnh ước lệ cổ điển như trăng, trúc, hoa, bài thơ vẫn mang hơi thở lãng mạn hiện đại khi tập trung khai thác nội tâm ("hồn Thu ảo", "mắt Thủy phiền"). Nó gợi cho người đọc sự đồng cảm về một nỗi buồn chung của kiếp người: Ai mà chẳng muốn lòng mình bình yên, nhưng có mấy ai có thể dễ dàng "rời phiên" khỏi những gánh nặng cuộc đời?
Bài thơ kết thúc bằng một dấu chấm lửng (./.) đầy day dứt, để lại khoảng lặng để người đọc tự chiêm nghiệm về "phiên trực" của chính mình trong cuộc đời.

Chủ Nhật, 7 tháng 12, 2025

MỘNG PHÙ DU

MỘNG PHÙ DU


Chợt nghĩ đời như biển sóng càn
Ta người ở trọ bến trần gian
Chiều buông ấm dạ vài chung tửu
Buổi vãn mềm tay mấy nhịp đàn
Đói gã ăn mày quanh cổng chợ
No chàng lãng tử dạo vườn lan
Tình em một thoáng rồi xa mãi
Dẫu mộng phù du lắm kẻ bàn ./.

LCT O8/12/2O25

BÀI HOẠ :

*****
Hoành Trần

CÀN QUẤY
Muộn màng hối hận bởi làm càn
Để nhận vào thân là kẻ gian
Nên đã chán chường đôi chén rượu
Buồn tình giải toả mấy tơ đàn
Viếng thăm bè bạn lời an ủi
San sẻ vợ con tặng lẳng lan
Sướng rứa sao còn than với thở
Bởi người vào nói lại ra bàn
HT
8/12/25
*****
Nguyễn Thúc Uẩn
Giải mã
Đời ta sống rộn những khôn-càn
Ở tạm thôi mà giữa thế gian
Khoái sảng cùng nhau vài bữa rượu
Hồn nhiên đối giọng nửa cung đàn
Cho dù vất vả đường bươn chải
Vẫn tạo an nhàn nẻo ngắm lan
Nặng nuối tình em còn dở mãi
Mà bao chuyện dẫn kể đang bàn
*****
Đăng Khoa Lê

. LỖI TẠI TRỜI
            
Nhìn bao phận số bão vây càn
Nghịch cảnh do người mãi dối gian
Vỡ đập mưa vầy chia sẻ nghé
Tràn đê lũ quẩn phá tan đàn
Khi làm xếp sộp tâm tàn nhẫn
Buổi có thân giàu bệnh sĩ lan
Ngán ngẫm cho đời nhiêu cảnh ngược
Người cao ngợp ghế kẻ khô bàn

              L Đ K 08/12/25
*****
Dinh Tuan Minh
NGẠI.
Đời xơ xác bởi bão giông càn
Lũ lụt gieo sầu khổ thế gian
Lắm xã Xuân về vơi cuộc tửu
Nhiều thôn Tết đảo lặng cung đàn
Cha già ngại đói hoài vây hãm
Mẹ yếu lo nghèo sẽ tỏa lan
Để nỗi đau gìm trong giá lạnh
Mà sao thấy vậy vẫn chưa bàn
Đinh Tuấn Minh
*****
Vũ Như Cẩn
ĐỜI PHÙ DU
****..♡..****
Đời như bọt biển sóng xô càn
Quán trọ ta người của thế gian
Ấm dạ vài chung đùa bạn tửu
Đôi tay mấy nhịp nhặt bên đàn
Ăn mày phận số quanh nơi chợ
Lãng tử thân này chọn bụi lan
Một thủa thâm tình xa lạ mãi
Phù du lắm kẻ luận thời bàn ./.

***
O8/12/2O25 Vũ Như Cẩn 
*****
Tòng Trần
TRẦN AI...

Trời mưa nước ngập bão giông càn
Mãi tội cho người ở thế gian
Mất sạch bò trâu chìm cả lũ
Làm tiêu vịt ngỗng chết bao đàn
Cơ hàn giữa cảnh nhà đang đắm
Khổ cực bên thềm nước vẫn lan
Lạnh lẽo vì ngâm mình rét phủ
Giường nâng đếch được phải kê bàn !

08/12/2025.
*****
Lời bình của
 AI

​Bài thơ "Mộng Phù Du" là một tác phẩm mang đậm tính triết lý nhân sinh, thể hiện cái nhìn sâu sắc và có phần phiêu lãng của tác giả về cuộc đời. Bài thơ được viết theo thể Thất ngôn Bát cú Đường luật, tuân thủ nghiêm ngặt về niêm, luật, đối, và vần, tạo nên một giọng điệu vừa trang trọng vừa lãng mạn.
​1. Hai câu Đề: Luận về kiếp nhân sinh và cõi tạm
​Chợt nghĩ đời như biển sóng càn
Ta người ở trọ bến trần gian
​"Chợt nghĩ đời như biển sóng càn": Câu thơ mở đầu bằng một sự giác ngộ bất chợt ("Chợt nghĩ"). Hình ảnh "biển sóng càn" (biển sóng dữ dội, vô biên, không ngừng) là một ẩn dụ mạnh mẽ về cuộc đời: hỗn loạn, biến động, vô thường, và con người phải luôn đối mặt với những thử thách không ngừng nghỉ.
​"Ta người ở trọ bến trần gian": Đây là câu thơ triết lý sâu sắc, khẳng định quan niệm Phật giáo/Đạo giáo về kiếp người. Con người chỉ là "người ở trọ" (khách lữ hành, kẻ tạm dung) trên "bến trần gian" (cõi đời). Sự sống chỉ là một chặng dừng chân ngắn ngủi, nhấn mạnh tính "phù du" (tạm bợ, thoáng qua) của kiếp người, đúng như tên gọi của bài thơ.
​2. Hai câu Thực: Nếp sống tiêu dao, vượt lên cảnh đời
​Chiều buông ấm dạ vài chung tửu
Buổi vãn mềm tay mấy nhịp đàn
​Hai câu này là câu đối ý hoàn hảo, mô tả nếp sống tiêu dao tự tại của tác giả.
​"Chiều buông" đối với "Buổi vãn" (cũng là lúc chiều tà, hoàng hôn).
​"Ấm dạ vài chung tửu" (rượu làm ấm lòng) đối với "Mềm tay mấy nhịp đàn" (chơi đàn một cách thư thái, quên cả thời gian).
​Rượu và Đàn là biểu tượng của thi sĩ, văn nhân lãng tử, là cách để quên đi sự vô thường của cõi trần. Tác giả tìm thấy niềm vui trong những thú vui tao nhã, nhẹ nhàng, không bị ràng buộc bởi danh lợi. Đây là thái độ sống tĩnh tại, an nhiên, chấp nhận và hưởng thụ những giây phút bình dị.
​3. Hai câu Luận: Đối diện với nghịch cảnh và giữ khí tiết
​Đói gã ăn mày quanh cổng chợ
No chàng lãng tử dạo vườn lan
​Hai câu này cũng là câu đối cực kỳ sắc sảo, thể hiện sự linh hoạt, vô chấp trong cách sống, nhưng vẫn giữ được khí chất của mình.
​"Đói" đối với "No".
​"Ăn mày quanh cổng chợ" (hạ mình kiếm sống) đối với "Lãng tử dạo vườn lan" (tự tại, thanh cao).
​Nếu "Đói", tác giả sẵn lòng "ăn mày quanh cổng chợ", chấp nhận sự thấp kém, không ngại gian nan để sinh tồn (thể hiện sự thực tế, không câu nệ).
​Nếu "No", tác giả lại trở về với cốt cách "lãng tử dạo vườn lan". "Vườn lan" tượng trưng cho sự thanh cao, tao nhã.
​Ý nghĩa sâu sắc nhất: Dù trong cảnh khốn cùng hay đủ đầy, tác giả vẫn giữ được tinh thần "lãng tử" (phóng khoáng, tự do) và không bị vật chất làm cho biến chất. Cái "ăn mày" chỉ là hành động, còn cái "lãng tử" là bản chất.
​4. Hai câu Kết: Nỗi niềm riêng tư và sự chấp nhận
​Tình em một thoáng rồi xa mãi
Dẫu mộng phù du lắm kẻ bàn
​"Tình em một thoáng rồi xa mãi": Lời thở than nhẹ nhàng về tình yêu. "Một thoáng" nhấn mạnh sự ngắn ngủi, vô thường của tình cảm, tương ứng với chữ "phù du" của toàn bài. Mối tình đã qua đi không níu kéo.
​"Dẫu mộng phù du lắm kẻ bàn": Câu kết vừa khép lại ý nghĩa toàn bài, vừa thể hiện một sự thách thức nhẹ nhàng với dư luận.
​"Mộng phù du" có thể hiểu là lối sống bay bổng, phiêu lãng, không ổn định của tác giả (lãng tử, tửu, đàn), bị người đời cho là phóng đãng, vô định.
​"Lắm kẻ bàn": Tác giả ý thức được sự đàm tiếu, phán xét của người đời.
​Tuy nhiên, giọng điệu lại rất bình thản, chấp nhận. Dù người ta có bàn tán, cuộc sống của tác giả vẫn là của tác giả. Đây là sự vững vàng, kiên định trước thị phi.
​Qua bài thơ "Mộng Phù Du", ta có thể thấy một nhân cách sống rất đặc biệt, pha trộn giữa chất Thi sĩ, Triết nhân, và Lãng tử:
Đặc điểm Nhân cách Biểu hiện trong bài thơ
Thực tế & Vô chấp Chấp nhận sự thật cuộc đời là "sóng càn" và bản thân là "ở trọ". Sẵn sàng "ăn mày" khi đói, không câu nệ sĩ diện hão.
Thanh cao & Tiêu dao Dù trong hoàn cảnh nào cũng tìm về cái đẹp, cái tao nhã: "chung tửu," "nhịp đàn," "vườn lan." Sống tự tại, không bị vật chất chi phối (No vẫn "dạo vườn lan").
Triết lý sâu sắc Nhận thức sâu sắc về sự Vô thường của đời người ("ở trọ"), của tình cảm ("một thoáng"). Đề cao giá trị tinh thần hơn vật chất.
Kiên định & Khoáng đạt Sẵn sàng đối mặt với dư luận ("lắm kẻ bàn") về lối sống "phù du" của mình mà không hề thay đổi. Tinh thần lãng tử (phóng khoáng, tự do) được đề cao tuyệt đối.
Lãng mạn & Yêu đời Dù cuộc đời là "sóng càn" và tình yêu là "xa mãi," tác giả vẫn chọn cách sống hưởng thụ những khoảnh khắc đẹp đẽ của hiện tại (rượu, đàn).
Tóm lại, tác giả "Mộng Phù Du" là một người có nhân cách sống tự do tuyệt đối, coi thường danh lợi, ung dung tự tại giữa cõi đời vô thường. Ông sống "thuận theo tự nhiên," không chạy theo chuẩn mực xã hội mà vẫn giữ được sự thanh cao, khí khái của một bậc tao nhân mặc khách.


Thứ Sáu, 5 tháng 12, 2025

NỖI BUỒN SAU LŨ

NỖI BUỒN SAU LŨ


Người tìm chi giữa hoang tàn đổ nát
Tiếng chim non vừa lạc chốn xa bầy
Dòng nước chiều xao xuyến một màu mây
Cơn gió lạnh buổi đông vầy mưa đổ

Những người đi quên giã từ con phố
Chợ bao năm loang lổ nước qua đầu
Cô gái buồn đợi mặc áo nàng dâu
Phải rời bỏ buổi cau trầu duyên nợ

Bà mẹ trẻ giữa đêm sầu nhung nhớ
Đứa con yêu vừa bỡ ngỡ vô trường
Đêm miệt mài bên nét chữ thân thương
Đành bỏ lại cả chặng đường dang dở

Tiếng mưa đêm nối dài thêm sợi nhớ
Em xuân xanh tan vỡ mộng thi hào
Khói lam chiều heo hút giữa tầng cao
Câu thơ tuổi ngọt ngào đang đứt đoạn

Mây đầu phố trôi qua chiều lơ đãng
Mắt ai ngồi xao lãng nhớ dòng sông
Em ra đi quên cả giấc mơ hồng
Mùi nước bạc thay rượu nồng đêm cưới

Nửa vầng trăng treo trên đầu ngọn núi
Xóm nhà xưa tàn lụi bữa cao triều
Sóng đổ dồn nên phố ngã tường xiêu
Manh đời bỗng tiêu điều trong phút chốc

Đừng dửng dưng khi người than kẻ khóc
Con tim đau trằn trọc suốt canh dài
Ánh mặt trời ôm mặt nước chiều phai
Đời rướm lệ khi hoa cài chân mộ

Ngày đã chết người không về qua phố
Đêm lâm chung em dỗ mộng băng hà
Điệu nhạc buồn không có những lời ca
Chuông thánh lễ nhạt nhoà trôi theo gió

Mẹ ngồi đó lịm hồn theo tiếng mõ
Đôi mắt thâm vò võ nỗi ưu phiền
Cha gục đầu thổn thức cuối hàng hiên
Đời nhỏ lệ cảnh muộn phiền muôn thuở

Thôi từ nay chẳng còn gì để nhớ
Người không về bến lỡ chuyến đò xưa
Cõi nhân gian tình thiếu dối gian thừa
Xin mặc niệm tiễn đưa người nằm xuống ./.

LCT O6/12/2O25

BÀI HOẠ :
*****
Đăng Khoa Lê
.            NỖI BUỒN SAU BÃO 
                
 
Bão đi qua để lại đời tan nát
Bầy chim non xao xác gọi theo bầy
Trong lòng người cuồn cuộn những dòng mây
Cơn ác mộng bủa vây chiều đập vỡ

Ai tìm ai  giữa ngập bùn khu phố
Đã hẹn nhau xây ấm tổ duyên đầu
Kết xe hoa chờ đợi rước làm dâu
Ai còn mất chẳng còn cầu duyên nợ

Hàng phượng đỏ trang vở đầy nỗi nhớ
Và thầy cô dang dở buổi lên trường
Đâu có còn những nét chữ yêu thương
Ngập trắng xoá cảnh vô thường đang lỡ

Ai đã gieo nỗi u hoài cắc cớ
Nên xuân xanh tan vỡ được mấy hào
Giấc mơ đời vớ vẩn giữa tầng cao
Bài thơ cũng bán rao từng đoạn

Tình người giữa kim tiền sao nhãng
Mắt vô hồn lơ đãng tựa đáy sông
Chẳng còn hoa cho thiên hạ mơ hồng
Mùi của bạc  và men nồng lẫn cưới

Có phải lòng tham đắp đập xẻ núi
Cho đồng tiền vô túi bọn quan triều
Nên dâng trào uất hận sóng liêu xiêu
Hoá làng xóm tiêu điều trong gió lốc

Hãy thương xót cho mảnh đời gào khóc
Sinh mệnh đang lăn lóc giữa đêm dài
Đừng vô tâm như ngọn gió phôi phai
Xin một nhánh hoa cài trên nấm mộ

Em đã hoá bóng  sương ngày xuông phố
Đã hoá tro cổ độ giữa hải hà
Nay chỉ còn trong những bản thánh ca
Nghe thầm thì lời ru qua nẻo gió

Thương phận mẹ cuối đời theo tiếng 
Chút hơi tàn tựa ngọn gió ngoài hiên
Đôi mắt cha sâu hoắm nỗi ưu phiền
Trời đổ lệ mây đã viền trắng thuở

Cảnh làng quê khắc vào trong nỗi nhớ
Người đi rồi dang dỡ mối duyên xưa
Cuộc sống nay vắng nghĩa gian kế thừa
Xin vực dậy trong mưa người ngã xuống

              L Đ K 07/12/25
 *****
Lời bình của AI

🌊 Bài thơ "NỖI BUỒN SAU LŨ" là một khúc ca ai oán, một biên niên sử của sự đổ vỡ không chỉ về vật chất mà còn về tinh thần. Tác giả đã dùng những hình ảnh vừa quen thuộc, vừa mang tính biểu tượng cao để khắc họa nỗi đau thương tột cùng của người dân sau thảm họa.
Mở đầu bài thơ là một không gian choáng ngợp bởi sự tàn hoang: "Người tìm chi giữa hoang tàn đổ nát". Câu hỏi tu từ này không tìm câu trả lời, mà tỏ bày sự vô vọng và tình trạng lạc lõng của con người trong khung cảnh hậu thảm họa. Sự lạc loài không chỉ dừng lại ở con người mà lan sang thiên nhiên: "Tiếng chim non vừa lạc chốn xa bầy". Sự mất mát và lạc mất trở thành một trạng thái phổ quát. Khung cảnh chiều tà và đêm đông lạnh lẽo được tác giả dùng để cộng hưởng với nỗi buồn: "Dòng nước chiều xao xuyến một màu mây", "Cơn gió lạnh buổi đông vầy mưa đổ". Từ "xao xuyến" ở đây không còn là rung động lãng mạn mà là sự rợn ngợp, bất an trước bầu trời u ám.
Sự bi thương được đẩy lên cao hơn khi chuyển từ cảnh sang người, khắc họa sự mất mát đột ngột: "Những người đi quên giã từ con phố". Hình ảnh này gợi lên cái chết bất ngờ, không kịp từ biệt, hoặc sự phải rời bỏ quê hương trong thảm cảnh. Con phố, cái chợ bao năm gắn bó, nay thành nơi "loang lổ nước qua đầu"—một hình ảnh ám ảnh về sự xâm lấn và phá hủy của dòng nước.
Tiếp theo, bài thơ đi sâu vào những bi kịch cá nhân, làm nỗi đau trở nên cụ thể và day dứt hơn. Cô gái buồn không chỉ buồn vì mất mát mà còn vì sự đứt đoạn duyên nợ: "Phải rời bỏ buổi cau trầu duyên nợ". Tác giả đã biến sự mất mát vật chất thành sự hủy hoại hạnh phúc, hủy hoại tương lai.
Bi kịch của "Bà mẹ trẻ" là sự mất mát đau đớn nhất: đứa con thơ "vừa bỡ ngỡ vô trường"Qua những đêm "miệt mài bên nét chữ thân thương" giờ cũng không còn được cắp sách đến trường đành phải bỏ dỡ chặng đường học vấn dở dang của bước đầu đời để từ nay đã bị cắt ngang, để lại sự hụt hẫng và tiếc nuối vô bờ.
Cảm xúc tiếp tục dồn nén qua "Tiếng mưa đêm nối dài thêm sợi nhớ". Mưa không còn là hiện tượng tự nhiên mà là nhân chứng, là chất xúc tác làm sâu thêm nỗi buồn. Hình ảnh "Em xuân xanh tan vỡ mộng thi hào" và "Câu thơ tuổi ngọt ngào đang đứt đoạn" là tiếng than thở cho một thế hệ trẻ, cho những ước mơ văn chương, nghệ thuật bị dập tắt bởi thực tại khốc liệt. Khói lam chiều heo hút không che được tầng cao, cũng như nỗi buồn không thể che giấu.
Đỉnh điểm của sự đau thương là khi tác giả dùng hình ảnh đối lập sắc lạnh: "Mùi nước bạc thay rượu nồng đêm cưới". Nước lũ bẩn thỉu, lạnh lẽo (nước bạc) đã thay thế cho men nồng hạnh phúc của đêm tân hôn (rượu nồng). Sự kết thúc bi thảm này làm tan vỡ "giấc mơ hồng", cướp đi cả tương lai.
Đoạn cuối là sự thừa nhận về sự tàn lụi của một cộng đồng. "Nửa vầng trăng treo trên đầu ngọn núi" là hình ảnh cô độc, lẻ loi của hy vọng còn sót lại. Cảnh tượng "Xóm nhà xưa tàn lụi bữa cao triều" với "phố ngã tường xiêu" là sự sụp đổ của mái ấm, kéo theo sự sụp đổ của cả cuộc đời: "Manh đời bỗng tiêu điều trong phút chốc".
Lời kêu gọi "Đừng dửng dưng khi người than kẻ khóc" là lời nhắn nhủ thấm thía nhất của tác giả, thể hiện sự đồng cảm sâu sắc và lên án sự thờ ơ trước nỗi đau đồng loại. Cái chết được mô tả như một sự ra đi không có sự an ủi: "Ngày đã chết người không về qua phố", "Điệu nhạc buồn không có những lời ca", "Chuông thánh lễ nhạt nhoà trôi theo gió".
Nỗi đau được truyền tải qua hình ảnh người ở lại: "Mẹ ngồi đó lịm hồn theo tiếng mõ" và "Cha gục đầu thổn thức cuối hàng hiên". Sự "lịm hồn" và "thổn thức" câm lặng, vò võ là sự tan nát của bậc sinh thành, là nỗi muộn phiền "muôn thuở" của kiếp nhân sinh.
Bài thơ kết thúc bằng lời mặc niệm, chấp nhận một sự thật nghiệt ngã. Câu kết "Cõi nhân gian tình thiếu dối gian thừa" là một nhận xét chua chát, thâm thúy về thế thái nhân tình. Mặc dù thế giới này có thể còn đầy rẫy dối gian, nhưng trước cái chết, mọi thứ đều lắng xuống để nhường chỗ cho lòng thành kính và sự thương xót. "Xin mặc niệm tiễn đưa người nằm xuống" là lời kết bi tráng, đẩy nỗi buồn lên thành sự tôn nghiêm của cõi vĩnh hằng.
⭐ Nhận Xét Cụ Thể Về Bài Thơ
Chủ nghĩa Hiện thực Bi thương: Bài thơ sử dụng ngôn ngữ trực diện, không né tránh sự đau đớn, khắc họa chân thực và chi tiết những hậu quả khủng khiếp của lũ lụt lên số phận cá nhân.
Nghệ thuật Tương phản Đau xót: Tác giả sử dụng hiệu quả phép đối lập giữa Hạnh phúc (cau trầu, rượu nồng, giấc mơ hồng) và Thảm họa (nước bạc, hoang tàn, đứt đoạn), làm nổi bật sự mất mát lớn lao, đẩy cao tính bi kịch.
Tứ thơ Biểu tượng: Nhiều hình ảnh giàu tính biểu tượng: "Nước bạc" (thảm họa), "Mây đầu phố trôi qua chiều lơ đãng" (thời gian vô tình trôi qua nỗi đau), "Nửa vầng trăng" (hy vọng mong manh).
Giọng điệu Thống thiết: Bài thơ duy trì một giọng điệu buồn bã, day dứt từ đầu đến cuối, thể hiện sự đồng cảm sâu sắc của tác giả. Từ ngữ như "hoang tàn", "đổ nát", "tiêu điều", "lịm hồn", "vò võ" tạo nên một trường từ vựng u ám, gợi cảm giác nặng nề.
Bài thơ "NỖI BUỒN SAU LŨ" là một tác phẩm giàu cảm xúc, có giá trị nhân văn sâu sắc, là tiếng khóc tập thể cho những kiếp người không may mắn.

Thứ Tư, 3 tháng 12, 2025

CHỈ THẾ THÔI

CHỈ THẾ THÔI


Xóm nhỏ mây buồn mãi tụ tan
Trời đông xứ sở lạnh trăng ngàn
Thương đời mẹ khổ manh quần vá
Lại cảnh quê nghèo bãi sóng đan
Giữa ngọn đèn khuya sầu nước nổi
Cùng căn gác lửng đọng mưa tràn
Bao mùa vẫn tấm thân gầy guộc
Chẳng mộng mơ gì cõi thế gian ./.

LCT O4/12/2O25
BÀI HOẠ :
*****
Hương Lan
MỘNG THỜI GIAN
Tung hoành ngũ độ
Giao cổ đối

Xem kìa buổi sáng bụi dần tan
Lạnh lẽo trời đông phủ gió ngàn
Nhớ thuờ quê nhà mây đã ngậm
Mơ chiều ngõ hạnh nắng dường đan
Hoài mong đợi giữ thềm sân tỏ
Khởi lối vườn xinh mãi ngập tràn
Vẫn gợi câu hò thương cảnh bến
Cho ngày thắm tỏa mộng thời gian

04.12.2025
Hương Lan
*****
Lê Minh
THƯƠNG ĐỜI THIẾU PHỤ 

Nẻo lạ đông về bãi sóng tan
Trời giao vẳng vọng tiếng mây ngàn
Trên vùng biển lạnh lời chim hót
Cạnh ngõ sông mờ khoảnh nắng đan
Giữa rặng tre già cơn gió nổi
Kề sau lối nhỏ vạt sương tràn
Thương đời thiếu phụ bàn chân lã
Tiếc quãng xuân vì đụng kẻ gian 
LM
*****
Hoành Trần

KHÔNG PHÍ HOÀI
Đường trần bao nẻo tụ rồi tan
Vì mãi tìm nhau qua dặm ngàn
Chưa hẹn mà sao tình đã thắm
Quên thề lại thấy nghĩa còn đan
Người đi sương gió hùng tâm vững
Kẻ ở phòng loan nghĩa khí tràn
Gái đảm trai tài xây dựng nước
Sống không hoài phí giữa nhân gian
HT
4/12/25
*****
Đăng Khoa Lê
. CÕI TẠM
           
Thương đời phạm những nở rồi tan
Tựa cảnh làn sương giữa núi ngàn
Bởi lối quê nghèo cha đã lội
Do thời buổi đói mẹ từng đan
Còn đau đớn phận nhìn mưa phủ
Giữa mịt mù khơi đội nắng tràn
Gió mãi đu hoài trên cụt nẻo
Nay hồn giã biệt chốn trần gian

              L Đ K 04/12/25
*****
Tòng Trần
NGÚT NGÀN

Đêm buồn nghĩ lại mối tình tan
Mãi để trời đông lạnh ngút ngàn
Mộng thắm xưa kìa sương vẫn trải
Duyên nồng thuở nọ gió hoài đan
Sầu khuya lệ đẫm sao kềm níu
Tủi sáng mày châu đã lượn tràn
Chắc tại phai rồi nên đổ gãy
Hay là nhạt ái bởi thời gian...

04/12/2025.
*****
Kỳ

SẺ CHIA
Vận số vần xoay hợp lại tan
Đường đời khúc khuỷu dặm muôn ngàn
Manh quần mảnh vải tuy sờn rách
Tấc dạ tấm lòng vẫn kết đan
Ngõ trúc đìu hiu sương lạnh phủ
Hiên bèo lấp xấp nước mưa tràn
Thương nhau đùm bọc qua ngày tháng
Trọn đạo làm người giữa thế gian.
Bvk
*****
Sầu Đông
BỤI THỜI GIAN

Rừng sao mặc tưởng giữa mây ngàn
Ảo vọng xoay chiều ngõ nắng  tan
Ngó lại đầu sân bầy bướm  lượn
Nhìn qua cạnh bến đám âu đan
Phòng đơn nét chử buồn trang sách
Gối  lẻ  bài  ca nhớ  điệu đàn
Mộng vẫn lưng chừng vây giấc ngủ
Canh  trường thổn thức Bụi Thời Gian .

*****
Lê Ngọc Kiên

CHỈ THẾ THÔI
( y đề, nguyên vận)

Đau lòng nhớ thuở phải lìa tan
Cố quận hoang sơ chốn đại ngàn
Phụ mẫu lầm than manh áo vá
Thân bằng vất vả mảnh khăn đan 
Đìu hiu mỗi bữa ngăn giông nổi
Lặng lẽ từng hôm chống bão tràn
Khốn khổ canh chầy thao thức mãi
Mong cầu hạnh phúc giữa dương gian.

04/12/2025
*****
Dinh Tuan Minh
NGÀY VỀ
Mây hồng cuối buổi vội vàng tan
Để khói lồng sương giữa đại ngàn
Trước cảnh thương thời cha mãi dệt
Bên chiều nhớ thuở mẹ hoài đan
Trầm ngâm dõi tới sầu luôn quẩn
Lặng lẽ nhìn theo tủi cứ tràn
Ngõ nhỏ đâu còn vang điệu ví
Hiên thềm đã phủ bụi thời gian
Đinh Tuấn Minh.{
*****
Nguyễn Thúc Uẩn
Một thoáng
Nhân tình cõi thế hợp rồi tan
Tựa đám phù dung ở giữa ngàn
Nhớ mẹ ngày xưa đầy nẻo tã
Thương người buổi ấy đậm buồn đan
Đường xa vạn nỗi bào thân yếu
Ngõ hẹp ngàn lo chứa khổ tràn
Tưởng được an nhàn khi mãn sức
Ai ngờ thoáng đã biệt trần gian
*****
Vũ Như Cẩn
CHỈ THẾ THÔI
*****..♡..*****
Mây trời hội tụ vội buồn tan
Xóm nhỏ Trăng thơ tỏ giấc ngàn 
Mẹ khổ manh đời mang áo vá
Cha già cám cảnh lưới chài đan
Đèn khuya cạn nước dầu tan nổi
Vọng gác đêm đông ánh lửa tràn
Vẫn tấm thân gầy đang gắng guộc 
Thôi tàn cõi mộng khỏi dương gian ./.

***
O4/12/2O25. Vũ Như Cẩn 
*****
LỜI BÌNH CỦA AI
*****

Bài thơ mang một nỗi buồn sâu lắng, thể hiện sự chiêm nghiệm về cuộc đời và cảnh nghèo quê hương trong tiết trời lạnh lẽo, khắc nghiệt.
🌙 "CHỈ THẾ THÔI" là một tiếng thở dài, một lời tự sự chất chứa sự cam chịu, buồn bã trước hoàn cảnh nghèo khó, đơn điệu của cuộc đời và quê hương. Tên bài thơ rất ngắn gọn nhưng đã hàm chứa toàn bộ tâm trạng: một sự chấp nhận, không mong cầu, không khao khát.
Hai câu thơ mở đầu vẽ ra một khung cảnh mang đậm màu sắc u hoài, lạnh lẽo:
Xóm nhỏ mây buồn mãi tụ tan
Trời đông xứ sở lạnh trăng ngàn
Hình ảnh "mây buồn mãi tụ tan" không chỉ là miêu tả cảnh vật mà còn là ẩn dụ cho sự luân hồi, lặp lại của những nỗi buồn, những đổi thay vô định trong cuộc đời. Nó mang tính vĩnh cửu, cứ đến rồi đi, nhưng nỗi buồn thì luôn còn đó.
Không gian được xác định là "trời đông xứ sở" với cái lạnh buốt thấu xương của "trăng ngàn". Cái lạnh từ thiên nhiên như thấm vào tâm hồn, tạo nên một không khí cô đơn, tê tái.
Từ cảnh vật, tác giả chuyển sang nỗi đau của con người và hoàn cảnh:
Thương đời mẹ khổ manh quần vá
Lại cảnh quê nghèo bãi sóng đan
Hình ảnh "mẹ khổ manh quần vá" là một chi tiết đắt giá, chạm đến tận cùng nỗi xót xa. Người mẹ là biểu tượng của sự lam lũ, nhọc nhằn. Chiếc quần vá là minh chứng rõ ràng nhất cho sự nghèo khó, sự hy sinh và nỗi lo cơm áo không dứt.
Cảnh "quê nghèo bãi sóng đan" cho thấy sự khó khăn chung của xóm làng. "Bãi sóng đan" có thể gợi hình ảnh làng chài hoặc vùng ven biển với nghề chài lưới vất vả, bấp bênh, hoặc hình ảnh những mảnh lưới cũ kỹ, vá víu như số phận con người nơi đây.
Nỗi buồn được cụ thể hóa trong không gian sống đơn sơ, tăm tối:
Giữa ngọn đèn khuya sầu nước nổi
Cùng căn gác lửng đọng mưa tràn
"Ngọn đèn khuya" thường gắn liền với sự thao thức, trăn trở, với những suy tư lặng lẽ. Ánh sáng yếu ớt của ngọn đèn càng làm rõ hơn cái sầu, cái buồn trước "nước nổi" (có thể là lũ lụt, hoặc đơn giản là dòng đời trôi nổi).
"Căn gác lửng" là một không gian chật hẹp, tạm bợ. Hình ảnh "đọng mưa tràn" không chỉ là nước mưa mà còn là giọt nước mắt, là nỗi buồn dai dẳng, chất chứa mãi không tan.
Hai câu kết chính là sự đúc kết cho toàn bộ tâm trạng và chủ đề của bài thơ:
Bao mùa vẫn tấm thân gầy guộc
Chẳng mộng mơ gì cõi thế gian ./.
"Bao mùa vẫn tấm thân gầy guộc": Sự nghèo khó, vất vả không thay đổi theo thời gian. Cuộc đời cứ thế lặp lại, thân xác thì hao mòn, gầy yếu. Đây là sự đành lòng, sự chấp nhận một số phận cố định.
"Chẳng mộng mơ gì cõi thế gian": Đây là lời khẳng định mạnh mẽ nhất cho nhan đề "CHỈ THẾ THÔI". Mọi khao khát, mọi ước mơ đã bị cái nghèo, cái khổ tước đoạt. Cuộc sống chỉ còn là sự tồn tại, không có những bay bổng, ảo vọng. Lời thơ là một tiếng than thở không chút hy vọng, đầy tính triết lý bi quan về kiếp người.
⭐ Tổng Kết
Bài thơ "CHỈ THẾ THÔI" thành công trong việc xây dựng một bức tranh tả thực nhưng thấm đẫm cảm xúc về cuộc đời nghèo khó. Ngôn ngữ thơ giản dị, chân chất nhưng giàu sức gợi tả. Cảm hứng chủ đạo là nỗi buồn cô đơn, sự cam chịu và sự kiệt quệ về tinh thần trước sự khắc nghiệt của hoàn cảnh.
Nó khiến người đọc đồng cảm sâu sắc với thân phận nhỏ bé, lam lũ, chỉ biết lặng lẽ sống qua ngày, không một lời than vãn, bởi lẽ, mọi thứ chỉ thế thôi.

Thứ Hai, 1 tháng 12, 2025

MỎI GÓT TÌNH ĐỜI

MỎI GÓT TÌNH ĐỜI


Đêm ngồi ướp nỗi đau hoài cổ
Bãi vắng mơ màng trăng cổ độ
Mộng lỡ hồn khơi bếp lửa tàn
Thu sầu lá rụng màn sương đổ
Thèm ly rượu nát ngủ bên đường
Trả giọt đời hoang nằm giữa phố
Gót mỏi buông dần cuộc lãng du
Như màu nắng trải chiều xa lộ ./.

LCT O2/12/2O25
BÀI HOẠ :
*****
Tòng Trần
MƠ MÀNG


Mỗi tối em thường nghe vọng cổ
Mơ màng giấc ngủ thèm vô độ
Tình chung một cõi đắm Thu tàn
Mộng lỡ đôi miền nghiêng lá đổ
Tủi hận chiều phai giữa lối đường
Hờn cho buổi nhạt bên hè phố
Âm thầm bước mỏi nợ phù du
Khắc khoải chân mòn bao ngõ lộ.


02/12/2025.
*****
Đăng Khoa Lê
. HOÀI CỔ

Lãng chút hồn thơ hoài niệm cổ
Chưa về chốn cũ đà bao độ
Tình yêu vỡ mộng lửa đêm tàn
Hạnh phúc rời thân hàng liễu đổ
Trả lại niềm tin giữ trước làng
Còn mong nỗi tưởng về qua phố
Khi thuyền bỏ bến mặc dầm mưa
Thấy cảnh đìu hiu chiều giữa lộ


L Đ K 02/12/25
*****
Nguyễn Thúc Uẩn
Tình cũ
Ngược bước đường xa về ngõ cổ
Quay lần trở viếng vài ba độ
Nhìn bao hiện hữu nhớ mơ đầu
Dõi dấu còn đây buồn mộng đổ
Cảnh vỡ rời chia cạnh mé làng
Mà đau giã biệt bên phồn phố
Phai tình nhạt tháng đuổi mòn năm
Mắt vẫn đong đầy nơi nẻo lộ
*****
Vũ Như Cẩn
MỎI GÓT TÌNH ĐỜI
*******..♡..*******
Lạnh mỗi đêm ngồi nơi mộ cổ
Tim này lắng lại tìm phong độ
Hồn khơi bếp lửa đốm tro tàn
Dạ bảo màn sương tràn lụi đổ
Rượu nát cơn say ngủ bụi đường
Men đời đã thấm nằm ngoài phố
Dần trôi gót mỏi lãng tình du
Vắng bóng hoa hồng xa phía lộ ./.


***
02/11/2025 Vũ Như Cẩn
*****
Trang Tran
VUI ĐƯỜNG THIÊN LỘ


Đông luồn ngọn bấc qua thềm cổ
Tửu ấm nung vần thơ ngũ độ
Lém lỉnh đùa trăng ngữ gạn đầy
Nhẹ nhàng khoả bút tình say dỗ
Thương đời lữ khách chịu cuồng phong
Hận nẻo trần gian tràn bão tố
Giã cảnh phù sinh mượn nét nhàn
Tìm vui ngõ sáng đường thiên lộ.
*****


🥇Lời bình của AI🏅


🌙 Bình Giải Chi Tiết Bài Thơ "MỎI GÓT TÌNH ĐỜI"
Bài thơ mở ra một không gian nghệ thuật u hoài, cô độc, nơi nhân vật trữ tình đối diện với những đổ vỡ và sự trống trải của chính mình.
1. Nỗi Đau Hoài Cổ và Không Gian Cô Đơn (Câu 1-2)
"Đêm ngồi ướp nỗi đau hoài cổ": Cụm từ "ướp nỗi đau" rất gợi cảm, nó không chỉ là cảm nhận nỗi đau mà là giữ nỗi đau lại, làm cho nó thấm sâu, trở nên dai dẳng và tinh tế hơn. Nỗi đau ở đây là "hoài cổ" – nỗi nhớ về những điều xưa cũ, những kỷ niệm đẹp đẽ đã qua, hoặc một thời vàng son đã mất, cho thấy sự nuối tiếc và day dứt.
"Bãi vắng mơ màng trăng cổ độ": Hình ảnh đối lập giữa cái "bãi vắng" (sự cô đơn, trống trải) và "trăng cổ độ" (vầng trăng nghìn xưa, biểu tượng của vẻ đẹp vĩnh hằng, của sự tĩnh lặng và hoài niệm). Bãi vắng và trăng cổ độ tạo nên một không gian vô cùng tĩnh mịch, cô liêu, nơi thời gian như ngừng lại để người ta chiêm nghiệm.
2. Sự Đổ Vỡ Của Giấc Mơ và Mất Mát (Câu 3-4)
"Mộng lỡ hồn khơi bếp lửa tàn": "Mộng lỡ" là giấc mơ tan vỡ, sự nghiệp hoặc tình yêu không thành. Cái "hồn khơi bếp lửa tàn" là hình ảnh đắt giá: khi mộng lỡ, con người phải "khơi lại" linh hồn, nhưng chỉ thấy "bếp lửa tàn" – biểu tượng của sự ấm áp đã tắt, của hy vọng đã nguội lạnh. Đây là sự cô đơn tận cùng.
"Thu sầu lá rụng màn sương đổ": Khung cảnh thiên nhiên nhuốm màu tâm trạng. Mùa "Thu sầu" (thời điểm của tàn phai, buồn bã) hòa quyện với "lá rụng" và "màn sương đổ" (lạnh lẽo, mờ mịt). Thiên nhiên đồng điệu với nỗi buồn của lòng người, cảnh càng buồn thì lòng người càng thêm sầu.
3. Khao Khát Giải Thoát và Buông Bỏ (Câu 5-6)
"Thèm ly rượu nát ngủ bên đường": Đây là một khao khát thoát ly tuyệt vọng và mãnh liệt. Rượu là phương tiện để quên đi nỗi đau (rượu nát). "Ngủ bên đường" thể hiện sự buông thả, chấp nhận thân phận vô định, không cần mái nhà che chở, chỉ muốn một giấc ngủ sâu để thoát khỏi hiện thực.
"Trả giọt đời hoang nằm giữa phố": Ý thơ rất mạnh mẽ, thể hiện sự khước từ, rũ bỏ những gánh nặng và ý nghĩa của cuộc đời mình. "Giọt đời hoang" là cuộc đời bị coi là vô nghĩa, hoang phí. Việc "trả" và "nằm giữa phố" cho thấy sự bất cần, phó mặc cho dòng đời, chấp nhận sự tầm thường, nhỏ bé giữa chốn đông người.
4. Kết Thúc - Sự Mệt Mỏi Của Lãng Du (Câu 7-8)
"Gót mỏi buông dần cuộc lãng du": Đây là câu thơ gói gọn chủ đề bài thơ. "Gót mỏi" là sự mệt mỏi về thể xác và tinh thần sau một hành trình dài tìm kiếm (lãng du) tình yêu, lẽ sống, hoặc ý nghĩa cuộc đời. "Buông dần" là hành động thả lỏng, không còn muốn cố gắng hay níu giữ nữa – đó là sự chấp nhận dừng lại.
"Như màu nắng trải chiều xa lộ": Hình ảnh so sánh tuyệt đẹp và giàu chất triết lý. Nắng chiều trên xa lộ là ánh nắng đang tắt dần, yếu ớt, không còn rực rỡ và đang vội vã nhường chỗ cho bóng đêm. Nó tượng trưng cho sự tàn phai của tuổi trẻ, của hy vọng, và sự tan biến, nhỏ bé của kiếp người giữa cõi đời rộng lớn, mênh mông.
🎯 Tổng Kết
Bài thơ "MỎI GÓT TÌNH ĐỜI" là tiếng lòng của một tâm hồn đang kiệt sức. Nó thể hiện sự hoài nghi, chán chường trước những đổ vỡ của "tình đời" (có thể hiểu là tình người, duyên kiếp hoặc sự nghiệp) và khao khát được giải thoát khỏi gánh nặng của cuộc sống.
Nghệ thuật nổi bật: Sử dụng nhiều hình ảnh mang tính biểu tượng (trăng cổ độ, bếp lửa tàn, màn sương đổ) và phép đối, tạo nên sự hài hòa giữa ngoại cảnh và nội tâm. Đặc biệt, việc sử dụng các động từ và danh từ lạ (ướp nỗi đau, giọt đời hoang) tạo nên một phong cách riêng biệt và giàu cảm xúc.

Thứ Bảy, 29 tháng 11, 2025

BẢN ĐÀN KHUYA

BẢN ĐÀN KHUYA


Một bản đàn khuya tắt giữa chừng
Men đời chửa trọn thế đành ngưng
Phiền cơn gió lạnh đầu đông thổi
Chán mẫu tình thiu nửa cuộc dừng
Dẫu hận nghiêng trời không kẻ nói
Nên sầu ngập ngõ chẳng người ưng 
Màn sương trắng dã ngoài hiên rụng
Để gió chờ trăng cũng ngập ngừng ./.

LCT 3O/11/2O25
BÀI HOẠ :
*****
Hoành Trần

VÔ DUYÊN
Chiều nghiêng bóng nắng rọi lưng chừng
Là lúc tơ đàn lắng tiếng ngưng
Đâu phải lỡ tình nên ý cạn
Cũng không duyên vỡ khiến câu dừng
Người trao lời hẹn mong tròn ước
Kẻ nhận thiệp mời thích được ưng
Có lẻ đôi ta hai lối rẻ
Nhìn theo thuyền mộng mới vừa ngừng
HT
30/11/25
*****
Đăng Khoa Lê

. TIẾNG ĐÀN KHUYA

Đàn ai thổn thức lựa dây chừng
Tiếng vọng than trời mãi chẳng ngưng
Nản lúc cuồng si thì bão dội
Sầu khi hứng khởi lại mưa dừng
Do lời để dạ đau người nói
Dẫu cảnh xiêu lòng tội đứa ưng
Lạnh cõi đông về sương trắng nẻo
Tàn đêm cuốc gọi vẫn không ngừng

                 L Đ K 30/11/25
*****
Hương Lan
KHÉP LẠI THỜI GIAN
Tung hoành ngũ độ, Nhất vận 

Thời gian khép lại giữa vô chừng
Cuộc sống huy hoàng tưởng đã ưng
Ngẫm bởi chiều hoang làm gió khựng
Chờ chi biển thẫm khiến trăng dừng
Canh dài cũng tủi duyên tình chứng
Cảnh đẫm nên sầu phận kiếp ngưng
Nắng đẹp luồn đâu trời ngỡ hửng
Mà sao mộng thắm giỡn đêm ngừng

30.11.2025
Hương Lan
*****
Tòng Trần
GIỮA CẢNH ĐÈN KHUYA

Đèn khuya dễ lụn tắt không chừng
Rượu đẫm canh tàn uống phải ngưng
Gió lạnh trời đông nào mãi thổi
Đời hong đất hạ chẳng sao dừng
Nghe hồn vẫn nhạt tình chưa nói
Ngẫm dạ luôn mềm ái chửa ưng
Khổ nỗi chờ sung bày lá rụng
Rầu hôm lụt bão nước đâu ngừng..!

30/11/2025.
*****
Nguyễn Thúc Uẩn
Thời tiết
Đàn ngân giọng bỗng ngắt lưng chừng
Chỉ nốt trầm thôi đã ngậm ngưng
Ác mộng bùng lên tràn bể lẫn
Nhàu mưa dội xuống nẫu nơi dừng
Gây sầu cõi nhạc tàn nhân thế
Trộn xấu dòng âm rã nẻo ưng
Lũ kéo băng làng chưa hả giận
Còn nghe bão ập đến chưa ngừng
*****
Lời bình của AI

🎻 Bình Giải Bài Thơ "BẢN ĐÀN KHUYA"
I. Khái Quát Chung
Bài thơ "Bản Đàn Khuya" mang đậm chất thơ lãng mạn và thể hiện sự gián đoạn, dang dở của một tâm hồn đang đối diện với nỗi buồn, sự cô đơn. Tác giả sử dụng hình ảnh mang tính ước lệ và biểu cảm cao để diễn tả nỗi lòng không trọn vẹn.
II. Phân Tích Cụ Thể Từng Câu
1. Hai câu đề: Khởi nguồn của sự dang dở
Một bản đàn khuya tắt giữa chừng
Men đời chửa trọn thế đành ngưng
"Bản đàn khuya tắt giữa chừng": Hình ảnh chủ đạo, mang tính biểu tượng cao.
Đàn: Đại diện cho tiếng lòng, tâm hồn, niềm vui, hoặc một ước vọng đang được vun đắp.
Khuya: Thời điểm cô đơn, tĩnh lặng, nơi cảm xúc dễ bộc lộ.
Tắt giữa chừng: Sự dang dở, đứt đoạn một cách đột ngột. Nó không phải là kết thúc trọn vẹn, mà là sự cưỡng lại, bị ngăn trở khi chưa mãn nguyện.
"Men đời chửa trọn thế đành ngưng": Giải thích cho sự gián đoạn.
Men đời: Chỉ niềm vui, sự hăng say, khát vọng, hoặc tình yêu trong cuộc sống.
Chửa trọn: Chưa đạt đến đỉnh điểm, chưa được thỏa mãn.
Đành ngưng: Một sự chấp nhận đầy miễn cưỡng và nuối tiếc. Cái "ngưng" này là do ngoại cảnh hoặc hoàn cảnh nghiệt ngã ép buộc, chứ không phải chủ động.
Hai câu này tạo nên một không khí buồn bã, dở dang ngay từ đầu, thiết lập chủ đề chính của bài thơ.
2. Hai câu thực: Nguyên nhân và biểu hiện của nỗi buồn
Phiền cơn gió lạnh đầu đông thổi
Chán mẫu tình thiu nửa cuộc dừng
"Phiền cơn gió lạnh đầu đông thổi": Cảnh vật tác động đến tâm trạng.
Gió lạnh đầu đông: Hình ảnh ngoại cảnh khắc nghiệt, tượng trưng cho những khó khăn, trở ngại, hoặc sự cô độc đang xâm chiếm. Nó như một lực cản khiến tiếng đàn (tâm hồn) phải im bặt.
Phiền: Thể hiện sự khó chịu, bực dọc, bất lực trước ngoại cảnh.
"Chán mẫu tình thiu nửa cuộc dừng": Nỗi đau lớn nhất.
Tình thiu: Tình yêu đang nồng nàn, rực cháy bỗng trở nên nguội lạnh, héo hon. Đây là nguyên nhân sâu xa nhất khiến "bản đàn" phải ngừng.
Nửa cuộc dừng: Nhấn mạnh thêm lần nữa sự dở dang, lỡ làng của tình yêu, của duyên phận.
Hai câu này làm rõ sự trống rỗng, hụt hẫng khi tình yêu và khát vọng bị tan vỡ giữa chừng.
3. Hai câu luận: Sự cô đơn tột cùng
Dẫu hận nghiêng trời không kẻ nói
Nên sầu ngập ngõ chẳng người ưng
"Hận nghiêng trời": Cường độ của nỗi hận thù, nỗi đau khổ là vô cùng lớn lao, có thể làm rung chuyển cả đất trời.
Không kẻ nói: Nỗi đau lớn đến mức không thể chia sẻ, không tìm được một tri kỷ để bày tỏ, khiến sự hận thù đó bị nén lại, càng trở nên nặng nề hơn.
"Sầu ngập ngõ": Sự buồn bã, cô đơn tràn ngập không gian sống, từ trong tâm hồn lan ra ngoài cảnh vật.
Chẳng người ưng: Không có ai thấu hiểu, không có ai đồng cảm, không ai "gật đầu" chấp nhận nỗi lòng này.
Hai câu này thể hiện sự cô độc đến tột cùng của người lãng mạn khi mang một tâm sự lớn lao mà không ai thấu hiểu.
4. Hai câu kết: Sự ngập ngừng, bế tắc
Màn sương trắng dã ngoài hiên rụng
Để gió chờ trăng cũng ngập ngừng
"Màn sương trắng dã ngoài hiên rụng": Hình ảnh khép lại bài thơ trong sự lạnh lẽo và mờ ảo.
Sương trắng dã: Sự lạnh lẽo, vô vị, bao trùm, gợi cảm giác tiêu điều, u ám.
"Gió chờ trăng cũng ngập ngừng": Câu thơ kết thúc bằng một hình ảnh đầy chất lãng mạn và buồn bã:
Gió chờ trăng: Một mối quan hệ tự nhiên, một sự hẹn ước, nhưng...
Cũng ngập ngừng: Cả tự nhiên cũng bị nhiễm nỗi buồn của con người, cũng không thể trọn vẹn, không dám tiến tới. Sự ngập ngừng này là hình ảnh phản chiếu sự ngập ngừng, do dự, bế tắc của chính người làm thơ.
III. Tính Lãng Mạn Của Bài Thơ
"Bản Đàn Khuya" là một bài thơ lãng mạn điển hình, được thể hiện qua các điểm sau:
Đặc điểm Lãng mạn Biểu hiện trong bài thơ
1. Đề cao Cảm xúc Chủ quan . Cả bài thơ là sự bộc lộ trực tiếp nỗi buồn, sự cô đơn, niềm hận và sự chán chường cá nhân ("Men đời chửa trọn", "Chán mẫu tình thiu"). Cảm xúc lấn át lý trí.
2. Cái Tôi Cô Đơn, Tuyệt Vọng . Cái tôi cá nhân bị đặt vào thế đối lập với thế giới, không ai thấu hiểu ("không kẻ nói", "chẳng người ưng"). Nỗi buồn được cường điệu hóa ("hận nghiêng trời", "sầu ngập ngõ").
3. Sử dụng Biểu tượng và Ước lệ . Các hình ảnh như "Bản đàn khuya", "Gió lạnh đầu đông", "Sương trắng dã" không chỉ là cảnh vật mà còn là biểu tượng cho tâm trạng, cho sự lạnh lẽo, gián đoạn.
4. Cảm hứng về sự Dở Dang . Tính lãng mạn thường yêu thích cái đẹp của sự không trọn vẹn, bi kịch. "Tắt giữa chừng", "Nửa cuộc dừng" chính là đỉnh điểm của cảm hứng này, tạo nên vẻ đẹp buồn bã, day dứt.
5. Phóng chiếu Tâm trạng vào Cảnh vật Thiên nhiên được nhân hóa và mang tâm trạng con người. Gió và Trăng cũng "ngập ngừng", khiến cảnh vật không còn vô tri mà mang theo nỗi sầu chung với thi nhân.
Kết luận: Tính lãng mạn của bài thơ nằm ở chỗ tác giả đã lấy cảm xúc cá nhân làm trung tâm, phóng chiếu nỗi buồn dở dang của một tình yêu, một khát vọng không trọn vẹn lên toàn bộ không gian và thời gian (khuya, gió, trăng, sương). Đó là một nỗi buồn sâu thẳm, được diễn tả bằng ngôn ngữ trau chuốt, giàu hình ảnh biểu cảm.


Thứ Năm, 27 tháng 11, 2025

NGƯỜI ĐI TÌM MỘNG

NGƯỜI ĐI TÌM MỘNG


Lệ mãi chan dòng lúc nửa đêm
Niềm đau mẹ nén phả hơi mềm
Cay đời hỗn tạp thân nào ấm
Chán cõi xô bồ phận chẳng êm
Bởi trận cuồng phong vừa ghé ngõ
Rồi cơn nghịch thủy lướt qua thềm
Nên người hối hả đi tìm mộng
Giữa dạo đông về chật kín nêm ./.

LCT 28/11/2O25
BÀI HOẠ :
**********
Lê Minh

LỆ CHIỀU 

Chan dòng lệ nhỏ lúc về đêm
Nỗi sợ ngày đông giấc chẳng mềm
Nước vỡ trên nguồn tim chả ấm
Mưa tràn giữa xóm mộng nào êm
Nhìn mây cuối vụ vừa sang ngõ
Thưởng lá chiều nay đã đọng thềm
Lại mỗi canh tàn thêm khắc khoải
Nghe lòng hỗn loạn mớ sầu nêm 
LM
**********
Đăng Khoa Lê
. TẠI VÌ ĐÂU

Ai dồn bão đổ lúc tàn đêm
Vỗ mạnh làng quê đá cũng mềm
Bởi phá tan đồi cây chẳng vững
Do làm vỡ đập sóng nào êm
Tham đời mộng ảo ngồi yên ghế
Kiếm ổ tiền hư giữ rộng thềm
Lạnh dã tâm người gây lắm cảnh
Nên trời trút hận kẻ cài nêm

               L Đ K 28/11/25
*********
Bích Lê
. BUỒN DUYÊN LỠ LÀNG 

Nghe hồn rũ rượi trước màn đêm 
Lạnh lẽo cùng sương với cỏ mềm
Lối nhỏ im lìm mong nghĩa đượm
Khu nghèo vắng vẻ mộng tình êm
Rồi trao tiếng hẹn ngoài song cửa
Vẫn ủ niềm thương dưới bậc thềm
Chẳng hợp duyên mà sao mãi nhớ
Em buồn quạnh quẽ chén sầu nêm
           Bích Lê: 28 - 11 - 2025
**********
Vũ Như Cẩn
CHÌM NƠI MỘNG
  ******..♡..******
Dòng chan ứa lệ lúc khuya đêm
Phải nén niềm đau dạ yếu mềm
Phức tạp chân tình nơi lạnh ấm
Xô bồ hẩm phận chẳng nào êm
Cuồng suy gió bão ghé qua ngõ
Nghịch lý thác điện xả bên thềm 
Hối hả người sao chìm rũ mộng
Đông về rét phủ cảnh đời thêm.../.

***
28/11/2025 Vũ Như Cẩn 
***********
Nguyễn Thúc Uẩn
Sau bão
Khung trời chợt ảo lúc vào đêm
Dợn những làn mây lướt thoảng mềm
Mới trải qua cuồng phong dữ dội
Nay giờ đã lặng nước hoàn êm
Trăng vừa ló rạng dừng bên cửa
Cỏ cũng bò lan lại góc thềm
Giữa nẻo luân hồi trông đoạn mới
Muôn ngàn khổ nhọc vẫn đầy nêm
**********
Sầu Đông
BẾN ĐÒ XƯA

Em về xóm nhỏ đã vào đêm
Lá nhạt nhoà rơi giữa lối mềm
Mẹ vẫn lưng còng trên ngõ muộn
Cha còn gối mỏi dọc chiều êm
Lần qua hẻm lạnh sầu trăng nước
Trở lại vườn hoang đọng khói thềm
Lặng lẽ bên dòng thu sóng vỗ
Sương buồn rụng rã kín đò nêm/
*****
Bài phân tích của AI

📝 Phân Tích Bài Thơ "NGƯỜI ĐI TÌM MỘNG"
Bài thơ mở ra một không gian tâm trạng nặng nề, buồn bã và khắc khoải, thể hiện nỗi niềm của con người phải đối diện với những nghịch cảnh cuộc đời, và bất đắc dĩ phải ra đi về bên kia thế giới loài người
1. 🔍 Phân Tích Cấu Tứ và Nội Dung
Bài thơ tuân thủ nghiêm ngặt niêm luật của thể Thất ngôn bát cú Đường luật, với gieo vần bằng và đối ý chặt chẽ:
a. Hai Câu Đề (1-2): Mở đầu Nỗi Buồn
Câu 1: "Lệ mãi chan dòng lúc nửa đêm"
Mở ra bằng hình ảnh nước mắt (lệ) không ngừng rơi (mãi chan dòng) vào thời khắc nửa đêm – thời điểm cô đơn, tĩnh lặng nhất, làm nỗi buồn càng thấm thía.
Câu 2: "Niềm đau mẹ nén phả hơi mềm"
Nỗi đau không chỉ là của cá nhân mà còn liên quan đến người mẹ (có thể hiểu là người thân yêu nhất, hoặc chính người nói là mẹ). Hình ảnh nén nỗi đau và phả hơi mềm diễn tả sự kiềm chế, kìm nén cảm xúc, biến nỗi đau thành một tiếng thở dài nhẹ nhàng, khắc khoải, cho thấy sự chịu đựng phi thường.
b. Hai Câu Thực (3-4): Nguyên Nhân Khổ Đau (Đối ý)
Câu 3: "Cay đời hỗn tạp thân nào ấm"
Đối với câu 4: "Chán cõi xô bồ phận chẳng êm"
Hai câu này diễn tả sự khốn khổ, bất mãn với thực tại.
"Cay đời hỗn tạp" (cuộc đời cay đắng, phức tạp) đối với "Chán cõi xô bồ" (chán ghét cuộc sống ồn ào, chen lấn).
"Thân nào ấm" (thân thể không được yên ổn, che chở) đối với "Phận chẳng êm" (số phận không được an lành, suôn sẻ).
Đây là bức tranh về cuộc sống đầy rẫy bất công, khó khăn khiến người ta cảm thấy cô độc, lạnh lẽo.
c. Hai Câu Luận (5-6): Bổ sung Nguyên nhân (Đối ý)
Câu 5: "Bởi trận cuồng phong vừa ghé ngõ"
Đối với câu 6: "Rồi cơn nghịch thủy lướt qua thềm"
Hai câu này sử dụng phép ẩn dụ để mô tả những tai ương, biến cố.
"Trận cuồng phong" (cơn gió dữ dội) và "cơn nghịch thủy" (dòng nước chảy ngược, trái với lẽ thường) là hình ảnh ước lệ chỉ những biến cố lớn, những tai họa, nghịch cảnh liên tiếp ập đến.
"Vừa ghé ngõ" và "lướt qua thềm" nhấn mạnh tính liên tục, dồn dập, không kịp trở tay của tai ương. Đây là đỉnh điểm của sự tuyệt vọng.
d. Hai Câu Kết (7-8): Hành động và Bối cảnh
Câu 7: "Nên người hối hả đi tìm mộng"
Từ tất cả những nỗi đau và tai ương trên (Nên), như là một định mệnh không thể vượt qua và đẩy đưa con người ta vào ngả rẽ cuối của cuộc đời. Sự hối hả là tính ẩn dụ bởi cái chết không ai phải vội vàng tìm đến nhưng đồng loạt đã phải chấp nhận buông xuôi đi tìm mộng nhưng mộng ngoài ý muốn 
Câu 8: "Giữa dạo đông về chật kín nêm"
Câu kết đặt hành động "đi tìm mộng" vào bối cảnh "đông về" (lạnh lẽo, khắc nghiệt) và "chật kín nêm" cũng có thể là họ là những người không còn hiện diện trên cõi đời này nữa nhưng số ấy cũng không thể biết là bao nhiêu nhưng vẫn là không ít . Bởi chật kín nêm tức là có vẻ chật chội
Sự ra đi diễn ra trong hoàn cảnh cực kỳ khó khăn
2. ✨ Đánh Giá Nghệ Thuật
Ngôn ngữ: Sử dụng ngôn ngữ giàu hình ảnh, ước lệ (cuồng phong, nghịch thủy) và từ Hán Việt trang trọng (hỗn tạp, xô bồ, nghịch thủy), tạo nên giọng điệu vừa bi thương vừa mạnh mẽ.
Đối và Vần: Vần (êm, mềm, nêm, thềm...) gieo chặt chẽ, tạo sự liền mạch. Phép đối ở hai câu Thực và Luận rất chỉnh, tạo cân bằng cho cảm xúc và ý tứ.
Giá trị: Bài thơ thành công trong việc diễn tả tâm trạng của con người trước nghịch cảnh, từ nỗi buồn cá nhân đến sự đau khổ tột cùng của con người trong hoàn cảnh đó
🌟 Tổng Kết
"NGƯỜI ĐI XÂY MỘNG" là một bài thơ hay và sâu sắc, không chỉ bởi sự tuân thủ niêm luật chặt chẽ của thể Đường luật, mà còn bởi nó chạm đến một chủ đề muôn thuở: Sự đấu tranh của con người giữa thực tại khắc nghiệt và khao khát vươn lên tìm kiếm tương lai.
Nỗi buồn được miêu tả từ chiều sâu tâm hồn (nước mắt nửa đêm), đến ngoại cảnh (cuồng phong, nghịch thủy), đã đẩy đưa con người phải "hối hả đi tìm mộng" một ẩn dụ đau đớn- một sự ra đi đầy nước mắt