BẢN ĐÀN KHUYA
Một bản đàn khuya tắt giữa chừng
Men đời chửa trọn thế đành ngưng
Phiền cơn gió lạnh đầu đông thổi
Chán mẫu tình thiu nửa cuộc dừng
Dẫu hận nghiêng trời không kẻ nói
Nên sầu ngập ngõ chẳng người ưng
Màn sương trắng dã ngoài hiên rụng
Để gió chờ trăng cũng ngập ngừng ./.
LCT 3O/11/2O25
BÀI HOẠ :
*****
Hoành Trần
VÔ DUYÊN
Chiều nghiêng bóng nắng rọi lưng chừng
Là lúc tơ đàn lắng tiếng ngưng
Đâu phải lỡ tình nên ý cạn
Cũng không duyên vỡ khiến câu dừng
Người trao lời hẹn mong tròn ước
Kẻ nhận thiệp mời thích được ưng
Có lẻ đôi ta hai lối rẻ
Nhìn theo thuyền mộng mới vừa ngừng
HT
30/11/25
*****
Đăng Khoa Lê
. TIẾNG ĐÀN KHUYA
Đàn ai thổn thức lựa dây chừng
Tiếng vọng than trời mãi chẳng ngưng
Nản lúc cuồng si thì bão dội
Sầu khi hứng khởi lại mưa dừng
Do lời để dạ đau người nói
Dẫu cảnh xiêu lòng tội đứa ưng
Lạnh cõi đông về sương trắng nẻo
Tàn đêm cuốc gọi vẫn không ngừng
L Đ K 30/11/25
*****
Hương Lan
KHÉP LẠI THỜI GIAN
Tung hoành ngũ độ, Nhất vận
Thời gian khép lại giữa vô chừng
Cuộc sống huy hoàng tưởng đã ưng
Ngẫm bởi chiều hoang làm gió khựng
Chờ chi biển thẫm khiến trăng dừng
Canh dài cũng tủi duyên tình chứng
Cảnh đẫm nên sầu phận kiếp ngưng
Nắng đẹp luồn đâu trời ngỡ hửng
Mà sao mộng thắm giỡn đêm ngừng
30.11.2025
Hương Lan
*****
Tòng Trần
GIỮA CẢNH ĐÈN KHUYA
Đèn khuya dễ lụn tắt không chừng
Rượu đẫm canh tàn uống phải ngưng
Gió lạnh trời đông nào mãi thổi
Đời hong đất hạ chẳng sao dừng
Nghe hồn vẫn nhạt tình chưa nói
Ngẫm dạ luôn mềm ái chửa ưng
Khổ nỗi chờ sung bày lá rụng
Rầu hôm lụt bão nước đâu ngừng..!
30/11/2025.
*****
Nguyễn Thúc Uẩn
Thời tiết
Đàn ngân giọng bỗng ngắt lưng chừng
Chỉ nốt trầm thôi đã ngậm ngưng
Ác mộng bùng lên tràn bể lẫn
Nhàu mưa dội xuống nẫu nơi dừng
Gây sầu cõi nhạc tàn nhân thế
Trộn xấu dòng âm rã nẻo ưng
Lũ kéo băng làng chưa hả giận
Còn nghe bão ập đến chưa ngừng
*****
Lời bình của AI🎻 Bình Giải Bài Thơ "BẢN ĐÀN KHUYA"
I. Khái Quát Chung
Bài thơ "Bản Đàn Khuya" mang đậm chất thơ lãng mạn và thể hiện sự gián đoạn, dang dở của một tâm hồn đang đối diện với nỗi buồn, sự cô đơn. Tác giả sử dụng hình ảnh mang tính ước lệ và biểu cảm cao để diễn tả nỗi lòng không trọn vẹn.
II. Phân Tích Cụ Thể Từng Câu
1. Hai câu đề: Khởi nguồn của sự dang dở
Một bản đàn khuya tắt giữa chừng
Men đời chửa trọn thế đành ngưng
"Bản đàn khuya tắt giữa chừng": Hình ảnh chủ đạo, mang tính biểu tượng cao.
Đàn: Đại diện cho tiếng lòng, tâm hồn, niềm vui, hoặc một ước vọng đang được vun đắp.
Khuya: Thời điểm cô đơn, tĩnh lặng, nơi cảm xúc dễ bộc lộ.
Tắt giữa chừng: Sự dang dở, đứt đoạn một cách đột ngột. Nó không phải là kết thúc trọn vẹn, mà là sự cưỡng lại, bị ngăn trở khi chưa mãn nguyện.
"Men đời chửa trọn thế đành ngưng": Giải thích cho sự gián đoạn.
Men đời: Chỉ niềm vui, sự hăng say, khát vọng, hoặc tình yêu trong cuộc sống.
Chửa trọn: Chưa đạt đến đỉnh điểm, chưa được thỏa mãn.
Đành ngưng: Một sự chấp nhận đầy miễn cưỡng và nuối tiếc. Cái "ngưng" này là do ngoại cảnh hoặc hoàn cảnh nghiệt ngã ép buộc, chứ không phải chủ động.
Hai câu này tạo nên một không khí buồn bã, dở dang ngay từ đầu, thiết lập chủ đề chính của bài thơ.
2. Hai câu thực: Nguyên nhân và biểu hiện của nỗi buồn
Phiền cơn gió lạnh đầu đông thổi
Chán mẫu tình thiu nửa cuộc dừng
"Phiền cơn gió lạnh đầu đông thổi": Cảnh vật tác động đến tâm trạng.
Gió lạnh đầu đông: Hình ảnh ngoại cảnh khắc nghiệt, tượng trưng cho những khó khăn, trở ngại, hoặc sự cô độc đang xâm chiếm. Nó như một lực cản khiến tiếng đàn (tâm hồn) phải im bặt.
Phiền: Thể hiện sự khó chịu, bực dọc, bất lực trước ngoại cảnh.
"Chán mẫu tình thiu nửa cuộc dừng": Nỗi đau lớn nhất.
Tình thiu: Tình yêu đang nồng nàn, rực cháy bỗng trở nên nguội lạnh, héo hon. Đây là nguyên nhân sâu xa nhất khiến "bản đàn" phải ngừng.
Nửa cuộc dừng: Nhấn mạnh thêm lần nữa sự dở dang, lỡ làng của tình yêu, của duyên phận.
Hai câu này làm rõ sự trống rỗng, hụt hẫng khi tình yêu và khát vọng bị tan vỡ giữa chừng.
3. Hai câu luận: Sự cô đơn tột cùng
Dẫu hận nghiêng trời không kẻ nói
Nên sầu ngập ngõ chẳng người ưng
"Hận nghiêng trời": Cường độ của nỗi hận thù, nỗi đau khổ là vô cùng lớn lao, có thể làm rung chuyển cả đất trời.
Không kẻ nói: Nỗi đau lớn đến mức không thể chia sẻ, không tìm được một tri kỷ để bày tỏ, khiến sự hận thù đó bị nén lại, càng trở nên nặng nề hơn.
"Sầu ngập ngõ": Sự buồn bã, cô đơn tràn ngập không gian sống, từ trong tâm hồn lan ra ngoài cảnh vật.
Chẳng người ưng: Không có ai thấu hiểu, không có ai đồng cảm, không ai "gật đầu" chấp nhận nỗi lòng này.
Hai câu này thể hiện sự cô độc đến tột cùng của người lãng mạn khi mang một tâm sự lớn lao mà không ai thấu hiểu.
4. Hai câu kết: Sự ngập ngừng, bế tắc
Màn sương trắng dã ngoài hiên rụng
Để gió chờ trăng cũng ngập ngừng
"Màn sương trắng dã ngoài hiên rụng": Hình ảnh khép lại bài thơ trong sự lạnh lẽo và mờ ảo.
Sương trắng dã: Sự lạnh lẽo, vô vị, bao trùm, gợi cảm giác tiêu điều, u ám.
"Gió chờ trăng cũng ngập ngừng": Câu thơ kết thúc bằng một hình ảnh đầy chất lãng mạn và buồn bã:
Gió chờ trăng: Một mối quan hệ tự nhiên, một sự hẹn ước, nhưng...
Cũng ngập ngừng: Cả tự nhiên cũng bị nhiễm nỗi buồn của con người, cũng không thể trọn vẹn, không dám tiến tới. Sự ngập ngừng này là hình ảnh phản chiếu sự ngập ngừng, do dự, bế tắc của chính người làm thơ.
III. Tính Lãng Mạn Của Bài Thơ
"Bản Đàn Khuya" là một bài thơ lãng mạn điển hình, được thể hiện qua các điểm sau:
Đặc điểm Lãng mạn Biểu hiện trong bài thơ
1. Đề cao Cảm xúc Chủ quan . Cả bài thơ là sự bộc lộ trực tiếp nỗi buồn, sự cô đơn, niềm hận và sự chán chường cá nhân ("Men đời chửa trọn", "Chán mẫu tình thiu"). Cảm xúc lấn át lý trí.
2. Cái Tôi Cô Đơn, Tuyệt Vọng . Cái tôi cá nhân bị đặt vào thế đối lập với thế giới, không ai thấu hiểu ("không kẻ nói", "chẳng người ưng"). Nỗi buồn được cường điệu hóa ("hận nghiêng trời", "sầu ngập ngõ").
3. Sử dụng Biểu tượng và Ước lệ . Các hình ảnh như "Bản đàn khuya", "Gió lạnh đầu đông", "Sương trắng dã" không chỉ là cảnh vật mà còn là biểu tượng cho tâm trạng, cho sự lạnh lẽo, gián đoạn.
4. Cảm hứng về sự Dở Dang . Tính lãng mạn thường yêu thích cái đẹp của sự không trọn vẹn, bi kịch. "Tắt giữa chừng", "Nửa cuộc dừng" chính là đỉnh điểm của cảm hứng này, tạo nên vẻ đẹp buồn bã, day dứt.
5. Phóng chiếu Tâm trạng vào Cảnh vật Thiên nhiên được nhân hóa và mang tâm trạng con người. Gió và Trăng cũng "ngập ngừng", khiến cảnh vật không còn vô tri mà mang theo nỗi sầu chung với thi nhân.
Kết luận: Tính lãng mạn của bài thơ nằm ở chỗ tác giả đã lấy cảm xúc cá nhân làm trung tâm, phóng chiếu nỗi buồn dở dang của một tình yêu, một khát vọng không trọn vẹn lên toàn bộ không gian và thời gian (khuya, gió, trăng, sương). Đó là một nỗi buồn sâu thẳm, được diễn tả bằng ngôn ngữ trau chuốt, giàu hình ảnh biểu cảm.




















